Thứ Sáu, 25 tháng 10, 2013

MI (1918-1929)

I. TÌNH HÌNH CÁC NƯỚC SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, các nước tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là các cường quốc châu Âu gập rất nhiều khó khăn về mọi mặt đối nội kể cả đối ngoại. Cách mạng tháng Mười Nga giành thắng lợi, nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên ra đời, chọc thủng khâu yếu nhất trong dây chuyền chủ nghĩa đế quốc. Sự kiện này đã tác động đến tình hình thế giới, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng thế giới, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản, các cuộc cách mạng dân chủ tư sản, cách mạng vô sản ở chính quốc, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa,…. phát triển mạnh mẽ, điều này đã làm rung chuyển chế độ tư bản, đe dọa đến sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Vấn đề đặc ra đối với giới cầm quyền các nước tư bản là phải tiêu diệt nước Nga Xô Viết để duy trì duy trì sự thống trị của chũ nghĩa tư bản. Tìm mọi cách đàn áp phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản trong nước và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Tương quan lực lượng, sức mạnh quân sự giữa các nước cũng đã có sự thay đổi, các nước thắng trận, bại trận đều suy sụp, tan rã và suy yếu nghiêm trọng. Riêng Mĩ đã trở thành chủ nợ của các nước châu Âu, có tiếng nói quan trọng trong hội nghị Vécxai. Sau chiến tranh, hàng loạt các hòa ước được kí kết, gọi chung là hệ thống hòa ước Vécxai, những hòa ước mà các nước thắng trận buộc các nước bại trận kí kết đều mang tính chất nô dịch. Hệ thống hòa ước Vécxai là văn bản chính thức đầu tiên sau chiến tranh thế giới thứ nhất xác định việc phân chia thế giới và tổ chức lại trật tự thế giới giữa bọn đế quốc thắng trận với nhau, đây là kết quả của quá trình vừa thỏa hiệp, vừa xâu xé lẫn nhau giữa các nước thắng trận lẫn các nước bại trận, không đảm bảo được hòa bình cho thế giới, trái lại càng làm cho mẫu thuẫn giữa các nước chủ nghĩa đế quốc càng thêm gay gắt. Hệ thống hòa ước Vécxai, chưa xóa bỏ được nguyên nhân cơ bản, sâu xa làm nổ ra chiến tranh thế giới, vì sự tồn tại của những nguyên nhân này sẽ là nới để bùng nổ ra một chiến tranh thế giới mới tiếp theo. Hệ thống hòa ước Vécxai được kí kết nhưng các nước đều không thỏa mãn, đế quốc Mĩ lợi dụng cơ hội đã ra sức cũng cố quyền lực của mình trên toàn thế giới. Hội nghị Oasinhtơn diễn ra, hội nghị này hoàn toàn có lợi cho Mĩ. Thông qua hội nghị, Mĩ nắm được thị trường Viễn Đông và Trung Quốc, nâng cao địa vị hải quân của mình trở thành số 1 của thế giới. Các khuôn khổ trong hệ thống hiệp ước Oasinhtơn đều do Mĩ chi phối. Châu Âu vốn từ lâu được coi là trung tâm của chủ nghĩa tư bản đã bị lâm vào tình thế bất lợi trước so sánh tương quan lực lượng mới sau chiến tranh, hầu hết các nước tư bản châu Âu giờ đây đã trở thành con nợ của Mĩ Trong suốt khoản thời gian hơn 20 năm, từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất đến chiến tranh thế giới thứ hai, các nước chủ nghĩa tư bản trải qua những giai đoạn với nhiều biến cố phức tạp, khi thì khủng hoảng, khi thì ổn định,…Nhìn chung, trong 10 năm đầu, các nước tư bản rơi vào khủng hoảng, từng bước khắc phục, rồi ổn định. Giai đoạn sau, các nước tư bản tìm mọi cách để thoát khỏi khủng hoảng và chính điều đó đã dẫn đến chiến tranh thế giới thứ 2. Cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội khiến cho chủ nghĩa tư bản lâm vào tình trạng bất ổn. II. NHỮNG ĐIỀU KIỆN THUẬN LỢI ĐỂ MĨ PHÁT TRIỂN KINH TẾ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT Mĩ là đất nước không bị chiến tranh tàn phá, do chiến trường chính của cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra chủ yếu ở châu Âu, lại thu được nhiều lợi nhuận từ việc buôn bán vũ khí trong chiến tranh. Mĩ tìm cách tận dụng lợi thế để vươn lên thực hiện tham vọng của mình, hầu hết các nước tư bản lúc bấy giờ đều trở thành con nợ của Mĩ. Bên cạnh đó Mĩ cũng đã trở thành trọng tài trong các cuộc đàm phán, dẫn đến hòa ước Vécxai. Mĩ là nước tham gia chiến tranh thế giới muộn hơn các nước khác (tháng 4.1917), nhưng lại đóng một vai trò quan trọng trong chiến thắng của đồng minh với phe Hiệp Ước. Khác với các nước tư bản châu Âu khác, nền kinh tế Mĩ phát triển rất cao ngay cả trong thời gian diễn ra cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và sau chiến tranh thì nền kinh tế Mĩ đã nhanh chóng phát triển một cách mạnh mẽ. Trung tâm kinh tế, tài chính của thế giới tư bản chủ nghĩa chuyển từ châu Âu sang Mĩ. Từ một con nợ của châu Âu trước chiến tranh, Mĩ dần dần tìm cách phát triển kinh tế trong quá trình chiến tranh và sau khi chiến tranh, Mĩ đã trở thành chủ nợ của các nước tư bản ở châu Âu (châu Âu nợ Mĩ hơn 10 tỉ USD. Mĩ tập trung trong tay 40% lượng dự trữ vàng của cả thế giới (hơn 1/3 lượng dự trữ vàng của toàn thế giới). Đảng Cộng Hòa được coi là Đảng của sự phồn vinh, Đảng này đã khẳng định vững chắc địa vị cầm quyền của mình mãi cho đến cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933, họ mới tỏ ra bất lực. Hội nghị Oasinhtơn hoàn toàn có lợi cho Mĩ, Nhật phải từ bỏ một phần ưu thế khá lớn đã giành được trong cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất ở Trung Quốc, Anh phải nhượng bộ cho Mĩ, nhận quyền bình đẳng về hải quân, hủy bỏ liên minh Anh – Nhật. Mĩ đã nắm được thị trường Viễn Đông và Trung Quốc, nâng cao địa vị hải quân của mình lên hàng đầu thế giới. Mĩ giữ vai trò lãnh đạo hội nghị Oasinhtơn là kết quả của sự thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho Mĩ trong chiến tranh thế giới thứ nhất, với hệ thống hòa ước Oasinh tơn, Mĩ đã nắm trong tay những quyền lợi của mình. III. TÌNH HÌNH NƯỚC MĨ GIAI ĐOẠN 1918-1921 1. Kinh Tế Sau chiến tranh, với những điều kiện thuận lợi mà nước Mĩ đã nắm bắt được trong cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất, cùng với đó là nhu cầu về hàng hóa của châu Âu sau chiến tranh cũng đã góp phần làm cho nền kinh tế Mĩ đã phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ, các ngành công nghiệp ở Mĩ rất phát triển, hàng xuất khẩu của Mĩ sang các nước châu Âu đã lên đến xấp xỉ 8 tỉ USD vào năm 1919. Tình hình nước Mĩ phát triển nhanh chóng như thế cũng đã góp phần là cho Mĩ trở thành trung tâm tài chính thương mại của thế giới vào năm 1919, cùng với việc Mĩ đã đầu tư ra bên ngoài với tổng số vốn lên đến 6.4 tỉ USD. Tuy nhiên vào những năm 1920, những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế ở Mĩ cũng đã bị hạn chế, do nhu cầu của người mua, sức mua trong nước bị giảm xuống và ngay cả thị trường của Mĩ ở châu Âu thị sức mua cũng đã bị giảm đi, một thị trường lớn của Mĩ cũng đã giảm xuống nhanh chóng,… điều đó đã dẫn đến việc hàng hóa ở Mĩ bị dư thừa và cuộc khủng hoảng thừa đã diễn ra ở Mĩ. Kết quả của cuộc khủng hoảng này hết sức nặng nề đối với nền kinh tế Mĩ. Tháng 3 năm 1921 sản lượng công nghiệp ở Mĩ giảm tới 1/3 sản lượng trước khủng hoảng, số lượng các xí nghiệp phá sản ngày càng tăng, điều đó đã dẫn đến việc những người công nhân phải mất việc làm, số lượng người thất nghiệp tăng nhanh chóng, đời sống của công nhân lâm vào tình trạng hết sức khó khăn, cơ cực,.... Và cuối cùng là phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động là không thể nào tránh khỏi đối với nước Mĩ trong tình hình lúc bấy giờ. Có thể nói đến cuộc khủng hoảng ở Mĩ đã bắt đầu vào cuối tháng 6 năm 1920, mặc dù không bị khủng hoảng như các nước tư bản khác vào những năm 1918-1921, tháng 4 năm 1921, sản xuất công nghiệp ở Mĩ đã giảm 29%, có 5.75 triệu người thất ngiệp, có đến hơn 2000 vụ phá sản, bên cạnh đó, giá nông sản bị hạ giá quá nhanh cũng đã làm cho 1/10 dân trại bị phá sản. Nền kinh tế nước Mĩ tuy không bị khủng hoảng sớm như các nước tư bản khác trong những năm 1918 – 1921, nhưng lại bắt đầu lâm vào tình trạng khủng hoảng (khủng hoảng thừa) này từ tháng 6 năm 1920. Tính đến tháng 4 năm 1920, sản xuất công nghiệp giảm 29%, có 4,75 triệu người thất nghiệp và có hơn 2000 vụ phá sản, 1/10 dân trại bị phá sản, do giá nông sản hạ quá nhanh. Năm 1921, Hácđinh người của Đảng Cộng hòa lên làm tổng thống, nền kinh tế Mĩ bước đầu thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng và đi vào ổn định, có thể nói là sớm hơn các nước khác 2. Chính Trị Với cuộc khủng hoảng thừa ở Mĩ, ngay từ những năm 1919, ở Mĩ đã có hơn 4 triệu công nhân tiến hành bãi công, cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt, nhất là trong các ngành công nghiệp than, luyện thép, ngành giao thông vận tải đường sắt,… Điển hình là cuộc bãi công diễn ra vào tháng 9 năm 1919, 35 vạn công nhân luyện thép đã tiến hành bãi công, cuộc bãi công đã kéo dài đến 4 tháng. Những cuộc đấu tranh này đều thất bại, nhưng nó cũng đã nói lên được phần nào tình hình xã hội Mĩ lúc bấy giờ, các cuộc đấu tranh cũng đã phần nào ngăn chặn được việc lương của công nhân bị tiếp tục giảm xuống. Cuối tháng 8, đầu tháng 9 năm 1919, đứng trước phong trào đấu tranh của công nhân Mĩ đang lên cao, những người xã hội cánh tả ở Mĩ do Giôn Rit và A. Vaghensơnếch đứng đầu đã tiến hành thành lập Đảng Cộng sản công nhân Mĩ. Đồng thời cũng vào lúc đó, một nhóm người xã hội cánh tả khác ở Mĩ cũng đã ngay lập tức thành lập Đảng cộng sản Mĩ do Rutenbéc đứng đầu. Hai Đảng này đều tham gia vào Quốc Tế Cộng Sản, đến tháng 5 năm 1921 hai Đảng này thống nhất lại thành Đảng Cộng Sản Mĩ. Sau khi Đảng Cộng Sản Mĩ thành lập, Đảng cũng đã tích cực lãnh đạo phong trào công nhân bãi công, tiến hành thành lập các tổ chức công đoàn. Số lượng bãi công là 1.4 triệu công nhân bãi công vào năm 1920, sang năm 1921, số lượng công nhân bãi công có đến 1.1 triệu người, đến năm 1922, số lượng công nhân lúc bấy giờ đã tăng lên đến 1.6 triệu người. Cùng với việc Mĩ tham dự vào vũ đài châu Âu, Mĩ trở thành trọng tài trong các cuộc đàm phán quốc tế, hầu như Mĩ đã làm chủ hoàn toàn các cuộc đàm phán này, hòa ước Vécxai diễn ra, rồi lại không công nhận, Mĩ đã giải quyết quyền lợi của mình không phải trong “khuôn khổ” của hệ thống hòa ước Vécxai mà bằng cách lập thêm một “khuôn khổ” mới do Mĩ chi phối đó là hệ thống hiệp ước Oasinhtơn. Hệ thống Vécxai – Oasinhtơn đã đánh dâu mưu đồ vương lên bá quyền của chính quyền Mĩ lúc bấy giờ. Mặc khác dưới thời tổng thống Uynxơn, Mĩ đã tăng cường bóc lột công nhân và dân trại, khuyến khích công nghiệp chiến tranh phát triển để tiến hành chạy đua vũ trang, không lo phát triển kinh tế, thực hiện chính sách “ biệt lập chủ nghĩa”, cùng với đó chính quyền Mĩ lại tiến hành chính sách phân biệt chủng tộc, những vụ tàn sát người da đen diễn ra ở Omaha, Elaine và nhất là ở Chicago cũng đã nói lên được điều đó. Để ngăn cảng những người da đen tham gia vào các nghiệp đoàn, chính quyền Mĩ đa thực hiện chính sách phân biệt chủng tộc của mình với hành động hết sức tàn nhẫn, với hành động này, chính quyền Mĩ đã giết chết 38 người, bị thương 520 người trong cuộc tàn sát người da đen vào ngày 27 tháng 7 năm 1919 tại Chicago. Mở ra các phiên tòa tiến hành xét xử những người cộng sản. 3. Đối Ngoại Ngày 08 tháng 01 năm 1918, tổng thống Mĩ là Uynxơn đã đưa ra kế hoạch 14 điểm. Với nội dung chủ yếu trong kế họach này là quyền tự quyết cho các dân tộc, các nước tham gia chiến tranh phải giải trừ quân bị, thành lập một tổ chức quốc tế có khả năng giải quyết các xung đột giữa các nước trên thế giới bằng con đường ngoại giao hòa bình. Kế hoạch còn đặc ra những điều kiện tiên quyết đối với Đức để bắt đầu cuộc đàm phán, đối với các dân tộc bị Áo - Hung và Thổ Nhĩ Kì thống trị đều có quyền tự quyết định nếu họ có ý định tách ra thành một quốc gia riêng biệt, độc lập. Cùng với đó, tổng thống Mĩ là Uynxơn còn sang Pháp vào tháng 01 năm 1919 để dự hội nghị Pari. IV. TÌNH HÌNH NƯỚC MĨ GIAI ĐOẠN 1922-1929 1. Kinh tế Từ năm 1925 đến năm 18928, Mĩ đã chi 10 tỉ USD để xây dựng nhà máy, công xưởng mới, cùng với việc đầu tư trang thiết bị và kĩ thuật mới. Phương pháp sản xuất dần hợp lý hóa sản xuất tư bản chủ nghĩa được tiến hành mạnh mẽ bằng cách áp dụng các biện pháp như phương pháp Taylor, phương pháp Ford đã là cho năng xuất lao động tăng lên nhanh chóng. Tại nhà máy sản xuất ôtô của hãng A.O.Smith và K, quy trình sản xuất Ôtô về căn bản đã được tự động hóa. Henry Ford đã làm một cuộc cách mạng thật sự khi tung ra thị trường mẫu xe T nổi tiếng mà giá thành lại hợp lý, lương công nhân tăng, giờ làm của công nhân được giảm xuống. Với việc áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất thì, tính đến năm 1928, sản lượng của 78 công nhân làm ra đã bằng với sản lượng mà 100 công nhân làm ra vào năm 1920. Việc cải tiến kĩ thuật và phương pháp sản xuất, đã làm cho nền kinh tế Mĩ vốn đã có nhiều lợi thế hơn các nước tư bản khác đã nhanh chóng phát triển mạnh mẽ. Đây chính là thời kì hoàng kim của Mĩ. Từ năm 1923 đến năm 1929 sản lượng công nghiệp ở Mĩ đa tăng 69%. Năm 1929, sản lượng công nghiệp ở Mĩ đã vượt qua sản lượng công nghiệp của toàn châu Âu, chiến đến ½ sản lượng công nghiệp của toàn thế giới. Sản lượng công nghiệp Mĩ đã vượt quá 9% so với tổng sản lượng của 5 cường quốc Đức, Pháp, Anh, Nhật và Italia cộng lại. Mĩ sản xuất 57% máy móc, 49% gang, 51.5% thép và 70% dầu hỏa của toàn thế giới. Về tài chính, Mĩ nắm 60% dự trữ vàng của toàn thế giới, với mức độ tập trung cao trong công nghiệp, nguồn vốn lớn nên Mĩ đã tăng cường đầu tư ra bên ngoài. Số tư bản xuất khẩu của Mĩ ra nước ngoài là 6 tỉ 456 triệu đô la vào năm 1919, đã nhanh chóng tăng lên 14 tỉ 416 triệu đô la vào năm 1929. Nhiều ngành công nghiệp ở Mĩ phát triển hết sức mạnh mẽ, một số ngành có sức cạnh tranh rất cao như chế tạo ôtô, chế tạo máy bay, kĩ thuật điện tử, hóa chất, công nghiệp rađiô, điện ảnh,… Sự phồn vinh lần này đã đạt tới mức chưa từng có trong lịch sử kinh tế của đất nước Mĩ. Mức tăng trưởng cao và sự thịnh vượng của nền kinh tế Mĩ tưởng chừng như chẳng bao giờ chấm dứt, đây được xem là một công lao to lớn của Đảng Cộng hòa mà người ta đã nghĩ trong thời kì lúc đó của Mĩ 2. Chính trị Hácđinh thành lập cục ngân sách, chấm dứt tình trạng rối ren trong hạ viện, chính phủ Mĩ đưa ra chủ trương cấm rượu, hạn chế nhập cư đối với người châu Á, châu Phi. Chính những chính sách cấm rượu đó đã dẫn đến hiện tượng giá rượu tăng cao, nạn bán rượu lậu xuất hiện tràn lan, bán rượu trở thành một nghề mau làm giàu. Hácđinh chủ trương đưa Mĩ trở lại chủ nghĩa cô lập truyền thống, không muốn tham gia hội quốc liên, để khỏi bị ràng buộc. Trong tháng 1 năm 1926, 16.000 công nhân dệt ở bang Niu Giơxi, 12.000 công nhân ngành thuộc da ở Niu Yóoc tiến hành bãi công. Ngày 1 tháng 4 năm 1927, có 17.5 vạn công nhân mỏ bãi công kéo dài 18 tháng để chống lại việc giới chủ giảm lương 20 đến 30%. Về chính trị, trãi qua các đời tổng thống C. Culítgiơ, H. Huvơ đã có nhiều biện pháp vừa đàn áp, vừa soa diệu phản ứng của công nhân. Một mặt ra đạo luật cấm bãi công, lại có đạo luật chống tham ô, hối lộ. Với công nhân thì giảm thuế, tăng lương, với dân trại thì lập cục nông nghiệp liên bang để giữ giá nông phẩm, tổ chức sử dụng sông Mítxixipi để phục vụ cho nghề nông. Chính nhờ có nền kinh tế tài chính phát triển vượt bật trong những năm 20 của thế kỉ XX mà Mĩ đã có điều kiện để bành trướng thế lực ra bên ngoài, tiến hành thực hiện mưu đồ bá chủ thế giới. Mĩ tiến hành đưa quân vào Nicaragoa vào tháng 12 năm 1926. Thông qua các kế hoạch Đaoxơ, Yơng viện trở cho Đức. 3. Đối ngoại Tháng 8 năm 1921, Mĩ đã kí hòa ước riêng lẽ với Đức, để bài tỏa sự không hài lòng với hòa ước Vécxai. Mĩ tổ chức hội nghị Oasinhtơn (tháng 11.1921) thông qua hội nghị này Mĩ đã thu lại được nhiều lợi ích. Cùng với hiệp ước tứ cường (ngày 13.12.1921) Mĩ cũng đã thủ tiêu được liên minh Anh – Nhật đã muốn khống chế Thái Bình Dương và chĩa mũi nhọn vào Mĩ. Đồng thời Mĩ cũng đóng vai trò chủ đạo trong nhóm bốn cường quốc Thái Bình Dương, trong hiệp ước Tứ cường về hạn chế lực lượng hải quân diễn ra vào ngày 6.2.1922, Mĩ đã giành được quyền bình đẳng với Anh về lực lượng hải quân, quyền bá chủ của Anh trên mặt biển trước đây đã bị phá vỡ. Như vậy với hội nghị Oasinhtơn, Mĩ đã xác lập vị trí số 1 và quyền lợi của mình không còn trong khuôn khổ của châu Âu mà cả ở ngoài châu Âu, mà trước hết là ở Viễn Đông bằng một hệ thống mới do Mĩ chi phối. Cùng với những lợi ích mà hội nghị Oasinhtơn đã mang lại, Mĩ đã có những điều kiện thuân lợi nhất định để đưa đất nước vươn lên tầm cao mới và đã khẳng định vị trí vượt trội về lực lượng hải quân của Mĩ trên Thái Bình Dương. Năm 1922, tại hội nghị Giơnevơ, Mĩ đã khẳng định vị trí vượt trội của mình so với các đối thủ cạnh tranh khác trên trường quốc tế. Đồng đô la được công nhận là đồng tiền quốc tế. Quy chế đó cũng đã khẳng định vị trí của Mĩ và từ đó Mĩ đã hưởng các lợi thế to lớn trên tất cả các mặt. Theo tính toán của Mĩ, đến năm 1925, số nợ của các nước châu Âu (tính cả lãi) là 20 tỉ USD, trong đó quốc gia nợ Mĩ nhiều nhất là Đức. những điều kiện đó, Mĩ đã bước vào một thời kì công nghiệp hóa phát triển cao và tập trung tư bản mạnh mẽ. Trong những năm 1925 – 1928 ở Mĩ đã có đến 5.400 xí nghiệp vừa và nhỏ bị phá sản, một số bị biến mất, một số bị hợp nhất. Những nguyên nhân để nền kinh tế phát triển là do: trong cuộc chiến tranh thế giới, Mĩ không phải là chiến trường chính, nên không bị chiến tranh tàn phá, Mĩ lại thu được một nguồn lợi nhuận khổng lồ từ việc buôn bán vũ khí và phương tiện chiến tranh cho các nước đế quốc tham chiến. Sau chiến tranh, Mĩ đã là chủ nợ của các nước đế quốc, và đã thu lại được rất nhiều lợi ích từ các nước này. Mĩ có điều kiện để bước vào một thời kì công nghiệp hóa phát triển cao. Cùng với đó, Mĩ đã áp dụng những tiến bộ của khoa học, kĩ thuật vào sản xuất, nguồn tài nguyên dồi dào, phong phú, đã làm cho năng xuất lao động không ngừng tăng lên. Tuy nhiên trong nền kinh tế Mĩ vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề chưa được khắc phục và chính nó chính là mầm móng cho cuộc khủng hoảng sau này. Hàng loạt các ngành công nghiệp có lợi nhuận thấp bị phá sản, số lượng công nhân thất nghiệp tăng lên. Nền nông nghiệp chậm phát triển, giá cả nông sản lại thấp dẫn đến đời sống nông dân gập rất nhiều khó khăn. Trong những năm 20 có đến 4.5 triệu người rời bỏ nông thôn, ra thành thị để tìm kiếm việc làm. Công nhân Mĩ tổ chức đấu tranh để đòi tăng lương, giảm giờ làm. Đảng 3K hoạt động trở lại, tiến hành tổ chức khủng bố, Đảng 3K là tổ chức Klu Klux Klan do U. Saimơn thành lập năm 1911 đây là tổ chức khủng bố mang nặng tính phân biệt chủng tộc chống lại người da đen và da màu, đây là tổ chức có thế lực rất lớn ở nhiều bang của nước Mĩ. Những điều đó chính là nguyên nhân tìm ẩn trong nền kinh tế Mĩ. Khả năng sản xuất của Mĩ đã vượt qua khả năng tiêu thụ của người dân, hiện tượng cung vượt cầu đã dần dần xuất hiện, khi mà số người thất nghiệp ngày một tăng. Một phần quá lớn thu nhập quốc dân nằm trong tay các nhà tư bản lớn, trong khi công nhân và nông dân thì thu nhập khá là ít ỏi, không đủ cho sinh hoạt thường ngày, không có khả năng mua hàng hóa mà do chính họ sản xuất ra. Mặc khác với chính sách của chính phủ Mĩ về thuế và nợ chiến tranh đã làm cho hàng hóa của Mĩ không thể bán ra bên ngoài, cùng với nhu cầu của các nước khác, đặc biệt là châu Âu giảm xuống nhanh chóng, những điều này đã họp lại và làn cho sản lượng công nghiệp ở Mĩ sản xuất ra dư thừa mà không thể bán được, cung đã vượt cầu. Nhiều ngành công nghiệp của Mĩ cũng chỉ sử dụng có 60 đến 80% công suất, nạn thất nghiệp lại xảy ra thường xuyên, thời kì từ năm 1922 đến năm 1927, có những tháng, số lượng công nhân thất nghiệp có đến 3.4 triệu người. Công cuộc hiện đại hóa ở Mĩ theo phương châm “công nghiệp tự do thái quá” đã dẫn đến sự phát triển không đồng bộ giữa các ngành công nghiệp, giữa công nghiệp và nông nghiệp, nền kinh tế không có kế hoạch dài hạn cho sự cân đối giữa cung và cầu. Cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra đối với nước Mĩ và tháng 10 năm 1929 đã nói lên được những hạn chế, những mặt còn tìm ẩn trong nên kinh tế nước Mĩ thời kì phồn vinh. V. CHÍNH SÁCH ĐỐI NỘI, ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG HÒA Trong cuộc tiển cử cuối năm 1920, Đảng Cộng Hòa đã giành được thắng lợi và từ đó trải qua các nhiệm kì tổng thống: Hácđinh (Harding) năm 1921 – 1923 và culítgiơ (Coolidge). Chính quyền của Đảng Cộng Hòa đã thi hành những chính sách thiên hữu nhằm bảo vệ quyền lợi của giới kinh doanh Mĩ ở trong nước và cả trên trường quốc tế. 1. Về đối nội Để duy trì sự thịnh vượng đang lan rộng (ít nhất là tại các đô thị ở nước Mĩ) chính sách của chính phủ trong thế kỉ 20 đặc biệt bảo thủ. Chính sách đó dựa vào niềm tin cho rằng, nếu chính phủ đã làm gì mà có thể khuyến khích, nuôi dưỡng kinh doanh tư nhân thì sự thịnh vượng cuối cùng sẽ bao quát phần còn lại của cư dân. Theo đó, các chính sách của Đảng Cộng Hòa đã dự định tạo điều kiện thuận lợi nhất cho ngành công nghiệp Hoa Kỳ. Đồng thời chính phủ liên bang bắt đầu chương trình cắt giảm thuế. Chính phủ Culítgiơ thi hành chính sách đàn áp những tư tưởng “cấp tiến” (hiểu theo kiểu Mĩ là có tinh thần cách mạng lật đổ). Năm 1927, chính phủ Mĩ đã tổ chức phiên tòa xét xử và tuyên án tử hình hai người công nhân vì công khai bài tỏ tư tưởng tiến bộ đã gây công phẫn cho dư luận nước Mĩ và thế giới. Ngoài ra tổng thống C.Culítgiơ và Huvơ còn đưa ra nhiều biện pháp vừa đàn áp vừa xoa dịu phản ứng của giai cấp công nhân. Một mặt ra đạo luật cấm bãi công, vừa có đạo luật chống tham ô, hối lộ; với công nhân: giảm thuế, tăng lương; với doanh trại: lập cục nông nghiệp liên bang để giữ giá nông phẩm, tổ chức sử dụng Mítxixipi để phục vụ nghề nông. 2. Về đối ngoại Các đạo luật về thuế quan năm 1922 và 1930 đã đẩy các hàng rào quan thuế đến đỉnh cao mới nhằm đảm bảo cho các nhà sản xuất Mĩ một vị thế độc quyền hết lĩnh vực này tới lĩnh vực khác tại thị trường trong nước. Giới cầm quyền Mĩ theo đuổi lập trường chống nước Nga Xô viết, cự tuyệt lời đề nghị của chính phủ cộng hòa liên bang XHCN Xô viết về việc thiết lập quan hệ với Mĩ. Ngày 25-8-1921, Mĩ kí hòa ước riêng rẽ với Đức. Từ ngày 12-11-1921 đến ngày 6-2-1922, Mĩ liên tiếp đứng ra chủ trì việc kí kết các hiệp ước: hiệp ước 4 nước, hiệp ước 9 nước và hiệp ước 5 nước, được gọi chung là “hệ thống hiệp ước Oashinhtơn “. Hệ thống này là một khuôn khổ mới về tổ chức thế giới sau chiến tranh do Mĩ chi phối. Chính quyền culítgiơ thông qua các kế hoạch Đaoxơ (1924) và kế hoạch Yơng (1929) để làm trọng tài trong việc thanh toán tài chính về bồi thường về nợ chiến tranh ở châu Âu, từ đó khống chế các nước châu Âu theo quỹ đạo của Mĩ. Chính quyền Mĩ tiếp tục chính sách thù địch với Liên Xô, tìm cách bành chướng thế lực ra Thái Bình Dương và Viễn Đông, gạt Anh và Nhật Bản ra khỏi thị trường Trung Quốc. Đối với khu vực Mĩ latinh, chính phủ Mĩ vẫn tiếp tục chính sách bành trướng của họ, thậm chí can thiệp quân sự khi cần thiết, Mĩ vẫn chiếm đóng kênh đào Panama, Nicagaroa, Haiti….Trong hội nghị Liên Mĩ (năm 1928) tại La Habana, để làm yên lòng các nước Mĩ latinh, Bộ Ngoại giao Mĩ ra sức giải thích rằng học thuyết Mơnrô – “châu Mĩ của người châu Mĩ”, không có nghĩa là đặt châu Mĩ dưới sự thống trị của người Hoa Kỳ, mà chỉ nhằm đặt toàn châu mĩ ra ngoài tầm tham vọng của châu Âu. VI. KẾT LUẬN Với những điều kiện thuận lợi mà nước Mĩ đã tận dụng được trong chiến tranh, Mĩ đã nhanh chóng trở thành trung tâm kinh tế, tài chính của cả thế giới, Mĩ từ một con nợ của châu Âu, nhanh chóng trở thành chủ nợ của các nước này. Cũng chính vì thế mà khi hàng hóa Mĩ sản xuất ra hàng loạt đã đưa đến tình trạng cung vượt cầu, hàng hóa dư thừa do thị trường trong nước gập khó khăn, còn thị trường nước ngoài, đặc biệt là thị trường châu Âu thì cũng không còn được như trước, sức mua của người dân bị giảm xuống do kinh tế các nước này đang gập khó khăn, người lao động lại phải làm việc nhiều giờ mà lương lại thấp,… Trước tình trạng đó, nền kinh tế Mĩ đã rơi vào tình trạng cung vượt cầu, khủng hoảng diễn ra. Mặc khác tình hình chính trị lại bất ổn, các cuôc đấu tranh của công nhân liên tiếp diễn ra,… Năm 1921, Hácđinh người của Đảng Cộng hòa lên làm tổng thống, với các chính sách đối nội và đối ngoại khôn khéo,…nền kinh tế Mĩ bước đầu thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng và đi vào ổn định. Sauk hi Đảng Cộng Hòa lên nắm chính quyền, nền kinh tế Mĩ đa bước vào một thời kì mới, được gọi là thời kì hoàng kim, một nền kinh tế phát triển cao độ, sự phồn vinh lần này đã đạt đến mức chưa từng có trong lịch sử kinh tế của nước Mĩ, những điều này đã làm cho Mĩ có tham vọng muốn làm bá chủ của thế giới. So với các nước tư bản khác, có thể nói Mĩ đã bỏ lại một khoảng cách khá xa, và chịu sự chi phối của nước Mĩ. Tuy vậy, nền kinh tế Mĩ với bộ mặt bề ngoài rất phồn thịnh vẫn còn tìm ẩn nhiều bất ổn, mà những bất ổn này sẽ là những nguyên nhân tìm ẩn các khó khăn cho nền kinh tế Mĩ, khủng hoảng sẽ diễn ra nếu những nguyên nhân này vẫn tồn tại trong nền kinh tế nước Mĩ lúc bấy giờ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Howard Cincoha, Khái quát lịch sử nước Mĩ, (Nguyễn Chiến dịch), NXB Chính trị Quốc gia, 2000. 2. Nguyễn Nghị - Lê Minh Đức, Lịch sử nước Mĩ, NXB Văn hóa Thông tin, 1994. 3. Lê Văn Quang, Lịch sử quan hệ quốc tế, NXB giáo dục 4. Đỗ Thanh Bình, Lịch sử thế giới hiện đại (quyển 1), NXB đại học sư phạm. 5. Nguyễn Anh Thái, Lịch sử thế giới hiện đại, NXB giáo dục Việt Nam.

Thứ Bảy, 28 tháng 9, 2013



Chửi người ta là cốt để người ta phải tức giận và nổi xung lên. Kiểu chửi mắng gây ồn ào, lấy thịt đè người vừa thiếu văn hóa lại vừa không tạo được “hiệu quả” như mong muốn của người chửi.
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam đã từng có một cuộc thi chửi để tìm hiệu quả cao nhất. Đó là chuyện của Ba Giai và Tú Xuất. Giai thoại rằng: “Ba Giai và Tú Xuất đều cho mình là tay cao thủ trong chuyện chửi xỏ xiên thiên hạ, không ai chịu kém ai. Thế nên để phân tài cao thấp, Ba Giai và Tú Xuất thi chửi thiên hạ xem ai là người bị thiên hạ chửi nhiều hơn. Tú Xuất là tay đanh đá nên đã từng chửi nhau 7 ngày với một bà hàng nước và giành chiến thắng nên rất tự tin. Tú Xuất chửi một hồi nhưng chỉ được chục người đáp lại vì không ai dại “dây với hủi”. Nhưng Ba Giai, với sự thâm trầm của mình, đi ra bến đò nhằm lúc đò đông mà rủa móc là đò sắp đắm. Không cần biết trên bờ là ai, cả trăm cái miệng đều chửi Ba Giai. Tú Xuất phục Ba Giai tài chửi hơn mình".
Chủ quán chửi có duyên
Chửi thề có “thương hiệu” là chị Ngọc Hiệp chủ cái quán cùng tên, chuyên bán hải sản, ở xã Bình Thắng, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre. Trước khi mở miệng nói một câu, chị thường đệm hai chữ “Đ. mẹ!”. Song giọng chửi của chị thật trong trẻo, hồn nhiên, luyến láy chứ không hề có ác ý. Nhiều khách quen còn cho đó là lời... mắng yêu. Chuyện chị Hiệp chửi thề ở Bến Tre đã trở thành... giai thoại. Một quan chức huyện Bình Đại gọi điện đến quán chị đặt trước mấy món ngon. Bắt điện thoại, nhận ra giọng “quan trên” chị nhỏ nhẹ thỏ thẻ: Dạ quán Ngọc Hiệp đây! Anh muốn dặn trước món gì?- Phải quán Ngọc Hiệp hôn?- Dạ phải!- Không tôi muốn gặp bà Hiệp chửi thề kia, giọng này lạ hoắc.- Đ.M nó đây cha nội! Đ.M cha muốn ăn gì đây tui mần cho?- Ừ phải rồi! Đúng bà Hiệp chửi thề rồi! (vị quan chức này vỗ đùi rõ to và cười ha hả).
Một anh bạn cũng ở Bến Tre, ghe chị chửi hoài nên... ghiền. Mỗi lần ghé quán chị ăn là anh kiếm chuyện chọc cho chị chửi càng nhiều thì anh ăn càng ngon miệng. Ví như: Bà có bắp trâu nhúng mẻ hôn? - Đ.M cha ngu còn hơn trâu! Cua gạch óc nóc, vàng lườm không chịu ăn lại đòi trâu.
Nếu có dịp về huyện Bình Đại, bạn thử hỏi bà Hiệp chửi thề với cánh xe ôm, nhân viên cây xăng, người bán vé số... ai cũng có thể chỉ đường bạn đến ngay quán Ngọc Hiệp để được... nghe chửi.
Tấn Tới
Việc chửi thi mồm to chỉ là chuyện "võ biền". Nói móc mới là nghệ thuật cao nhất của chửi, khiến người nghe phải phát điên và có khi … qua đời. Trong Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Khổng Minh là bậc thầy chửi móc nên dạy quân sĩ móc Chu Du là: “ Chu Du mẹo giỏi yên thiên hạ, đã mất phu nhân lại thiệt quân”, Du nghe xong khí uất đầy ruột, thổ huyết sau đó bệnh nặng mà chết. Khi Khổng Minh sang khẩu chiến với quần nho của Giang Đông, các bên cũng nói móc nhau để tạo thế trên bàn ngoại giao. Mưu sĩ Giang Đông nói: “Lưu sứ quân từ khi có tiên sinh đánh đâu thua đấy”, Khổng Minh móc lại: “Cái chí của đại bàng thì bọn sẻ biết thế nào được”. Nhưng Khổng Minh cũng chưa phải là người nói móc đầu tiên ghi trong chuyện Tàu. Thời Xuân Thu, Án Anh, thừa tướng nước Tề khi sang Sở bị tướng Sở bắt chui lỗ chó vào thành thì chửi móc luôn: “Đi sứ nước người thì vào cửa người, đi sứ nước chó thì vào cửa chó”. Người Sở căm tức nhưng không làm gì được.
Chẳng cứ quan văn mà quan võ cũng nói móc nhau trước trận để khiến đối phương tức điên lên. Trong trận Trương Phi đại chiến Mã Siêu (Tam Quốc diễn nghĩa), Phi múa mâu tự giới thiệu theo đúng bài: “Ta là Trương Dực Đức người nước Yên”. Mã Siêu nói móc luôn: “Nhà tao đời đời làm khanh tướng, đâu biết đến loại thất phu quê kệch như ngươi”. Trương Phi vốn xuất thân từ nhà bán thịt lợn, bị nói móc dòng dõi gia đình thấp hèn nên nổi điên ngay.
Đó là trong tiểu thuyết, còn đời sống hằng ngày, chuyện nói móc nhan nhản. Nó không thô như chửi to tiếng nhưng lại làm người nghe phải đau vì mỗi câu, mỗi từ như cứa vào nỗi đau của người khác. Hai nhà hàng xóm cãi nhau, một bà chửi sang luôn nhà bên kia: “Tao không chửi mày mà cho con tao sang chửi mày”. Bà kia vốn mặc cảm muộn chồng nên bị đối thủ chửi như vậy thì cứng họng nuốt nước mắt vào lòng. Không thể đỡ nổi với kiểu chửi móc thâm như thế. Nhiều khi để tạo sự uy hiếp cho đối thủ, cao thủ chửi móc không ngại lôi nỗi đau từ đời nảo đời nào của đối thủ ra bêu riếu. Vì những điều bị biêu riếu là sự thật nên đối thủ chỉ còn nước chào thua.
Trên mạng internet hiện giờ, dù là thế giới ảo nhưng cũng có vô số cao thủ chửi móc tại nhiều diễn đàn. Gặp một vấn đề tranh luận, thấy người kia sai một chút về kiến thức thì sẽ bị móc ngay: “Trình độ như chú không đáng để bàn chuyện với anh” hoặc “Chú nên về nhà đọc sách 10 năm rồi quay lại tranh luận với anh tiếp”. Không có một từ văng tục trong câu chửi nhưng người nghe khí uất đầy ruột chỉ muốn cầm bàn phím mà đập vào màn hình. Nếu trả đũa chửi lại trên diễn đàn thì sẽ bị admin khóa nick ngay. Trò chơi kết thúc, cao thủ chửi móc sẽ ngồi một góc cười rằng: “Trình độ tranh luận như thế thì non lắm”.
Chửi như hát thì sao mà cấm!
Hồi tháng 12 năm ngoái, Telegraph cho biết một nhóm nghị sĩ Nga đã đệ trình một dự luật, quy định người nào chửi thề nơi công cộng sẽ bị phạt từ 15 đến 45 USD. Quy định trên vốn sẵn có ở Belgorod của Nga. Được biết cảnh sát ở nơi này sẽ phạt ngay lập tức những người chửi thề tại khu vực công cộng từ 15 đến 45 USD. Đặc biệt những ai văng tục trước mặt trẻ em thì sẽ bị áp dụng mức phạt cao nhất. Liệu dự luật trên có được thông qua để trở thành luật của toàn nước Nga hay không thì còn phải chờ. Riêng ở ta, cho tới nay vẫn chưa có dự luật nào tương tự như thế. Phải chăng, vì trong tiếng chửi của người Việt còn chất chứa bao yêu thương và sự âu yếm thân tình. Các chị, các mệ ở Huế mỗi khi ném câu “mả cha mi” hay “mi là đồ con tinh”… vào mặt bọn trẻ, thì hầu hết đó không phải là ý chửi mà phải gọi là “mắng yêu”. Thậm chí khi nghe người lớn chửi mình như thế, đám trẻ con cũng tít mắt mà cười, nũng nịu chứ đâu có giận dỗi chi. Thế nên nếu đem hình phạt như ở vùng Belgorod nước Nga đề cập ở trên áp dụng cho người dân Huế thì coi như thua.
Chưa hết, người dân cố đô còn truyền miệng nhau câu chửi “Đồ mi là đồ mi phá, bố mi về là bố mi la” nghe cứ y như hát nhạc... Trong trường hợp này, chửi mà nghe hết sức dễ thương, người bị chửi thấy khoái thì luật nào cấm cho được.
Có điều lạ là nhiều câu chửi của người Huế thường hay bắt đầu bằng chữ “đồ”. Cảm giác như người ta dùng chữ “đồ” để làm giảm nhẹ cái từ chính thể hiện ý chửi. “Mi là đồ heo”, nghĩa là “đồ heo” chứ không hoàn toàn là “heo”. Hoặc khi muốn chửi mà chưa nghĩ ra từ để chửi cho sướng miệng, người ta chọn cách lấp lửng: ‘cái đồ, cái đồ…’. Còn cái đồ gì gì thì tự hiểu, nói chung là "tao đang muốn chửi mi".
Đây cũng là một đặc điểm chung của nhiều nơi thuộc miền Trung chứ không riêng gì Huế.
Ngôn ngữ chửi bới trong tiểu thuyết kim dung
Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung xây dựng thế giới của bọn hào sĩ giang hồ. Các nhân vật này sống trên đường đao mũi kiếm, ít được học hành, lại ỷ mình có chút võ công cho nên họ ăn nói rất lỗ mãng. Họ chửi bới kẻ thù, chửi bới người khác rất tự nhiên. Ngôn ngữ chửi bới đối với họ đã trở thành quán tính đến nỗi ta có thể nói không nghe tiếng chửi bới thì họ không còn là hào sĩ giang hồ.
Thông thường, bọn hào sĩ giang hồ chửi người khác bằng những cụm từ quân rùa đen, phường chó đẻ, bọn mặt dơi tai chuột, bọn trôi sông giạt chợ, quân chó lộn giống, bọn mèo què…Đàn ông thì tự xưng là “lão gia, lão tử”. Phụ nữ thì tự xưng là “lão nương” mặc dù họ chỉ mới vài ba chục tuổi. Nàng Khang Mẫn trong Thiên Long bát bộ chửi hương hồn chồng mình là Mã Đại Nguyên: “Mã Đại Nguyên, ngươi đừng làm ma nhát quỷ. Lão nương không sợ ngươi đâu”.
Giận lên, bọn hào sĩ giang hồ chửi tưới hạt sen, không tha một ai hết. Các nhà sư bị họ chửi là bọn trọc đầu, thầy chùa thối tha, thầy chùa chết đâm. Các đạo sĩ tu theo Đạo giáo của các phái Võ Đang hay Toàn Chân bị chửi là bọn lỗ mũi trâu. Minh giáo (Manicheisme - Ma Ni giáo, một tôn giáo đứng đắn bắt nguồn từ Bái Hỏa giáo) bị họ tước bỏ chữ Ni, chỉ còn Ma giáo (đạo thờ ma). Diệt Tuyệt sư thái, chưởng môn phái Nga Mi (Ỷ thiên đồ long ký) mở miệng ra là chửi là dâm tặc Ma giáo.
Tuy nhiên, kẻ chửi bới sáng tạo nhất, ngôn ngữ mới lạ nhất là Vi Tiểu Bảo, công tước của triều Thanh. Hắn xuất thân từ kỹ viện thành Dương Châu, lại được vào tu nghiệp trong hoàng cung Thanh triều. Mà hoàng cung và kỹ viện là hai nơi trá ngụy nhất trên đời nên Vi Tiểu Bảo được coi là bậc thầy của nghề chửi bới.
Hơn tất cả mọi người, hắn dám chửi thái hậu là mụ điếm già; chửi công chúa Kiến Ninh là con đượi non; chửi thượng thiện thái giám Hải lão công là Hải lão con rùa. Hắn luôn luôn đem tất cả những người phụ nữ khác, từ công chúa, quận chúa đến thứ dân so sánh với các kỹ nữ trong Lệ Xuân Viện thành Dương Châu. Sang Vân Nam, hắn chửi Bình Tây vương Ngô Tam Quế là đại hán gian; chửi Ngô Ứng Hùng - con Ngô Tam Quế là tiểu hán gian. Hắn chửi hay đến nỗi hai vị sư phụ của hắn là Khang Hy, hoàng đế Thanh triều và Trần Cận Nam, tổng đà chúa của Thiên Địa hội chống Thanh triều đều học theo hắn mà chửi. Họ chửi thái hậu giả là mụ điếm già. Và do thù mụ điếm già mà Khang Hy đem con đượi non Kiến Ninh công chúa (trên danh nghĩa là em Khang Hy) gả cho tiểu hán gian Ngô Ứng Hùng.
Ngay trên bàn đàm phán, đang làm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Thanh triều, hắn cũng chửi Phí Diêu Đa La Quả La Văn (Feodore Golovin), đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Nga La Tư (La Sát). Gặp Kim Dung viết: “Con mẹ quân chó đẻ! Ta nguyền rủa tổ tôn mười tám đời bọn quỷ La Sát các ngươi”. Thốt xong câu đó, hắn chửi Phí Diêu Đa La ào ạt. Kim Dung viết: “Rồi tiếp đến những lời thô tục tuôn ra như nước chảy, thao thao bất tuyệt. Hắn chửi cao tổ mẫu, tằng tổ mẫu, rồi đến tổ mẫu, mẫu thân, tỷ muội, bà ngoại, a di, cô mẫu nhà Phí Diêu Đa La. Hắn chửi tưới hột sen, chửi vung xích chó. Bao nhiêu đàn bà người họ Phí của nước La Sát hắn chửi tuốt, không chừa một ai”.
Hắn chửi bằng thổ ngữ đất Dương Châu (tỉnh Triết Giang); bọn thuộc hạ của hắn là người Trung Quốc nghe mà vẫn không hiểu công tước chửi cái gì. Ấy bởi vì họ nói tiếng Quan thoại. Chửi như thế thì bảo làm sao đại sứ Sa hoàng Nga có thể nghe ra được. Thật ra, Phí Diêu Đa La không phải họ Phí mà là họ Quả La Văn. Tuy nhiên, hắn cứ đè họ Phí mà chửi vì hắn dốt nát, đâu biết được người Nga cái tên đặt ở trước cái họ.
Lịch sử chiến tranh Trung Quốc cho biết người Trung Quốc thường dùng những tên to con, tốt tướng, miệng rộng, giọng to làm mạ thủ. Mạ thủ có nhiệm vụ ở truồng, đến trước thành bên địch mà chửi để khiêu khích tướng địch mở cửa thành ra đánh. Vi Tiểu Bảo bắt được một số hàng binh Nga, cũng buộc họ làm mạ thủ chửi tướng Đồ Nhĩ Bố Thanh (Tolbusin) mở cửa thành Nhã Tát Khắc (Nertohinsky) ra đánh nhau. Tuy nhiên, hắn thất vọng vì ngôn ngữ chửi của bọn lính Nga quá tầm thường, quanh đi quẩn lại chỉ là ngươi là con heo, ngươi là đồ chó. Hắn phải công nhận chỉ có người Trung Quốc chửi mới có ca có kệ, có vần có điệu và ngôn ngữ cực kỳ phong phú.
Trong 12 bộ tiểu thuyết và 3 đoản thiên của Kim Dung tràn đầy tiếng chửi bới. Tuy nhiên, những tiếng chửi bới này đặt vào đúng những văn cảnh, những tình huống, phù hợp với cách của từng nhân vật nên khi đọc, người đọc cảm thấy vui. Kim Dung không làm dơ văn chương của mình và cũng không muốn văng tục vào cuộc đời. Nghiêm Gia Viêm, giáo sư trường Đại học Bắc Kinh nhận định: “Kim Dung đã đưa tiểu thuyết võ hiệp lên ngang hàng với văn học cung đình”.
Phải thẩm thấu văn hóa mới cảm được văn hóa chửi
Theo tôi, chửi cũng là một nét văn hóa trong văn hóa nhân loại, nhưng chỉ khi ta thẩm thấu một cách kỹ lưỡng nền văn hóa ấy, ngôn ngữ ấy, thì ta mới cảm nhận hết cái "văn hóa chửi" nó "siêu nhiên" tới mức độ nào. Cứ thử đọc Tư cách mõ của cụ Nam Cao mà xem, xem cái câu chửi "mẹ kiếp" nó vừa lăng mạ, nó vừa chửi thề, mà nó cũng lại nói lên xúc cảm của người chửi và của cả người nghe chửi như thế nào: "- Mẹ kiếp! Không trách được người ta bảo: Tham như mõ...". Đọc Chí Phèo ta sướng bởi cái chửi của hắn, một cái chửi làm cho ta nhập hồn vào trong "văn hóa chửi" hay trong "văn học chửi". Nam Cao đã cho Chí Phèo thay tác giả chửi thả sức, chửi hết cỡ mà ai nghe cũng thích, cũng tưởng "thằng Chí Phèo nó chừa mình ra". "Bắt đầu là hắn chửi trời, rồi hắn chửi đời... rồi hắn chửi luôn cả cái làng Vũ Đại, nhưng cũng chẳng ai "bắt nhời"…".
Có nhiều cách chửi: Chửi thẳng, chửi mạt sát, chửi bới, chửi xéo, chửi móc, chửi tục, chửi leo, chửi trèo, chửi ví, chửi rủa... Mỗi kiểu chửi đều mang một xúc cảm khác nhau và đều mang lại một sự cân bằng tâm sinh lý nhất định. Không thể không nói đến "văn hóa chửi" và cũng không thể phủ định "văn hóa chửi". Chúng ta hãy chờ xem chuyên mục hấp dẫn này đưa chúng ta đến "biết chửi", "biết nghe chửi" và "cảm nhận chửi" như thế nào.
- Tôi không tán thành việc chửi thề, dù sao thì nói những lời ngọt ngào với nhau vẫn dễ nghe hơn. Cho dù đối phương có sai trái, nhưng nếu mình biết cách nói cho họ cảm thấy dễ chịu, cảm thấy bị thuyết phục thì mình vẫn thành công. Còn hơn là mình cứ ào ào buộc tội họ bằng những lời khó nghe, thì người ta có sai cũng không chịu thừa nhận là mình sai. Hơn nữa những lời nói trong cơn giận dữ của mình chưa chắc đã đúng. Tôi nghĩ việc gì cũng vậy, cần bình tĩnh và nói chuyện có văn hóa thì vấn đề mới được giải quyết, chứ chửi thề thì nên hạn chế tối đa.
Câu truyện về nói móc
Hồi còn bé, gã đã cảm thấy say mê và thích thú khi đọc câu chuyện, cũng như khi xem cuốn phim về Đavít và Goliát. Theo Kinh Thánh, lúc bấy giờ người Do Thái và quân Philitinh đang dàn trận đánh nhau. Bên quân Philitinh có Goliát, là một tên khổng lồ. Hắn cao 3 thước, đầu đội mũ chiến bằng đồng, mình mặc áo giáp vảy cá và nặng 50 ký. Chân mang tấm che bằng đồng, vai đeo cây lao cũng bằng đồng. Cán giáo của hắn như trục khung cửi thợ dệt, còn mũi giáo của hắn được làm bằng sắt và nặng 6 ký. Trong khi đó, Đavít chỉ là một cậu bé chăn chiên, trong túi có mấy hòn đá cuội nhặt được ở dưới suối, còn tay thì chỉ cầm một sợi dây bắn đá.
Sáng nào cũng thế, Goliát đều đến trước doanh trại của nguời Do Thái mà khích bác:
- Sao chúng bay không xông ra trận? Hãy chọn lấy một người và nó hãy xuống đây với ta. Nếu nó đủ sức mạnh để chiến đấu với ta và hạ đuợc ta, thì chúng tao sẽ làm nô lệ cho chúng bay. Còn nếu ta mạnh hơn nó và hạ được nó, thì chúng bay sẽ làm nô lệ và hầu hạ chúng tao.
Vua Saun và toàn thể dân Israel nghe những lời ấy, thì kinh khiếp và sợ hãi lắm. Thế nhưng, Đavít liền nói với nhà vua:
- Xin đừng ai ngã lòng vì hắn ta. Tôi tớ ngài đây sẽ đi chiến đấu với tên Philitinh ấy.
Đồng thời, Đavít đã trấn an nhà vua:
- Tôi tớ ngài là người chăn chiên chăn dê cho cha. Khi sư tử hay gấu đến tha đi một con chiên trong bầy gia súc, thì con đuổi theo nó, đánh nó và giật con vật khỏi mõm nó. Nó mà chồm lên con, thì con nắm lấy râu nó và đánh cho nó chết. Tôi tớ ngài đã đánh cả sư tử lẫn gấu, thì tên Philitinh không cắt bì này cũng sẽ là như một trong các con vật đó, vì nó đã thách thức các hàng ngũ của Thiên Chúa hằng sống…
Nhà vua liền nói với Đavít:
- Con hãy đi và xin Đức Chúa ở với con.
Khi nhìn thấy Đavít, tên Philitinh liền tỏ vẻ khinh dể và đã nói với cậu:
- Tao là chó hay sao mà mày cầm gậy đến với tao… Tới đây với tao, tao sẽ đem thịt mày làm mồi cho chim trời và dã thú.
Đavít bảo tên Philitinh rằng:
- Mày mang gươm, mang giáo, cầm lao mà đến với tao. Còn tao, tao đến với mày nhân danh Đức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa các hàng ngũ Israel mà mày thách thức. Ngay hôm nay, Đức Chúa sẽ nộp mày vào tay tao, tao sẽ hạ mày và làm cho đầu mày lìa khỏi thân. Ngay hôm nay, tao sẽ đem xác chết của quân đội Philitinh làm mồi cho chim trời và dã thú. Toàn cõi đất sẽ biết rằng có một Thiên Chúa che chở Israel…
Khi tên Philitinh bắt đầu xông lên và đến gần để đương đầu với Đavít, thì Đavít vội vàng chạy từ trận tuyến ra để đương đầu với tên Philitinh. Đavít thọc tay vào bị, lấy từ đó ra một hòn đá, rồi dùng dây phóng mà ném trúng vào trán tên Philitinh. Hòn đá cắm sâu vào trán, khiến hắn ngã sấp mặt xuống đất. Thế là Đavít đã chiến thắng tên Philitinh chỉ nhờ một dây phóng và một viên đá cuội. Nhưng vì trong tay không có gươm, Đavít bèn chạy đến, đứng trên xác của tên Philitinh, lấy gươm của hắn, rút khỏi bao, kết liễu đời hắn và dùng gươm chặt đầu hắn.
Theo truyện “Tam quốc chí diễn nghĩa” do Tử Vi Lang dịch, thì vào cuối đời nhà Hán, Trung Hoa lục địa bị chia thành ba nuớc, làm nên cái thế chân vạc, đó là nuớc Thục ở phía tây do Lưu Bị cai quản, nước Ngô ở phía đông do Tôn Quyền cầm đầu và nước Nguỵ ở phía bắc do Tào Tháo thống lãnh. Chiến tranh và loạn lạc xảy ra trong khắp cả thiên hạ. Tuy nhiên, có điều gã cũng nhận thấy đó là truớc mỗi cuộc giao tranh, bên này thuờng khích bác bên kia, còn bên kia thì lại thường chửi bới bên này một cách thậm tệ. Giống như một lượng dầu được đổ thêm vào lửa, làm cho ngọn lửa bùng cháy lên, thì những lời khích bác và chửi bới ấy cũng đã làm cho binh lính của cả đôi bên hăng tiết vịt. Và thế là họ liền hùng hổ xông ra chiến trận, hăng say chém giết lẫn nhau.
Từ những sự việc kể trên, gã đi vào đề tài của mục chuyện phiếm hôm nay bàn về “nghệ thuật nói móc”. Hẳn rằng mọi nguời đều biết ngôn ngữ và tiếng nói là một thứ quà tặng, được Thượng Đế ưu ái trao ban cho con người, để họ dùng làm phương tiện mà liên hệ với nhau. Vì thế, chúng ta có thể xác quyết một cách mạnh mẽ: Nguời là một con vật có ngôn ngữ, có tiếng nói.
Dĩ nhiên, gã không phủ nhận nơi con vật cũng có một thứ ngôn ngữ, một thứ tiếng nói nào đó để diễn tả những ước muốn của chúng, nhưng dầu sao thì thứ ngôn ngữ và tiếng nói ấy, cứ tạm gọi là nhu thế, vẫn còn ở trong tình trạng ấu trĩ và đơn giản. Chỉ có ngôn ngữ và tiếng nói nơi con người mới thực sự liên tục phát triển và tiến tới một đẳng cấp, một trình độ nghệ thuật mà thôi.
Thế nhưng, tuỳ theo phương thức sử dụng, ngôn ngữ và tiếng nói có thể mang lấy tính cách xây dựng hay phá đổ. Thực vậy, có những lời nói chân thành, những lời nói an ủi và khích lệ đã tạo được một bầu khí hoà thuận, đã bắc được một nhịp cầu cảm thông, làm cho con nguời hiểu nhau, nhờ đó mà xích lại gần nhau hơn. Nhưng đồng thời cũng có những lời nói độc địa và cay đắng, những lời nói bỏ vạ và cáo gian, đã làm cho người khác bị thân bại danh liệt, khơi rộng thêm mối hận thù, vốn dĩ đã từng âm ỉ trong cõi lòng của con người.
Và theo thiển ý của gã, thì một trong những loại ngôn ngữ mang lại hậu quả tàn phá, đó là nói móc. Thực vậy, mở bất kỳ một cuốn tự điển Việt Nam ra để tra cứu, gã đều thấy phạm trù “nói” của nguời Việt Nam thật là phong phú. Chẳng hạn trong cuốn “Việt Nam tự điển” của Lê Văn Đức, gã đếm đuợc cả thảy hơn 600 chữ đuợc ghép với chữ “nói”, từ “nói ấm ớ” đến “nói xiên nói xéo”… Quả là tuyệt vời! Vậy thế nào là nói móc? Tuỳ theo mức độ “đậm đặc” và ý đồ đen tối của người nói, gã ghi nhận đuợc nhiều cấp bậc nói móc khác nhau:
Đầu tiên là nói bóng nói gió, tức là nói một cách xa xôi để người ta hiểu ngầm, thường là với những lời hai ý. Tiếp đến là nói mát, tức là mỉa mai người ta một cách nhẹ nhàng cho thoả mãn nỗi tức giận của mình. Ai có tật thì giật mình.
Sau khi đã xơi qua những món khai vị, thì bây giờ mới tới món chính, gồm có: Nói kháy là nói với giọng điệu khiêu khích; nói móc là cố ý chọc tức, nói thế nào khiến cho người ta phải bực bội. Cũng trong phạm vi này, còn có nói xỏ, nói xóc, nghĩa là chọc cho nguời ta tức, nói cho người ta giận. Sau cùng, theo ngôn ngữ của nguời Hà Nội hôm nay, còn có nói đểu, nghĩa là nói với đầy ác ý cốt để cho người khác phải tức giận đã đành, mà còn bồi thêm một cú mỉa mai và khinh bỉ.
Theo một vài nhà “ngâm kíu”, thì nói móc là một thứ đặc sản của dân ta. Nó không phải chỉ là “tuyệt chiêu” của các bà các cô, mà nhiều lúc còn trở thành “độc chiêu” của giới mày râu nữa.
Thí dụ: Ta chẳng ưa gì một ông hàng xóm, nhưng lại không dám nói thẳng ra, và thế là ta bèn nói kháy, nói móc, khiến cho ông bạn tức như bị bò đá mà vẫn cứ phải nín khe. Ông bạn càng bực, càng tức, thì ta lại càng hả hê, khoái cái miệng và sướng cả cõi lòng.
Thí dụ nữa: Một đứa bé học trò nghịch ngợm trong lớp, bị ông thầy đánh cho ba roi. Trong khi ông thầy quất cái roi xuống, đứa bé theo phản xạ tự nhiên bèn đưa tay ra đỡ. Chẳng may cái roi đụng phải cái móng tay đứa bé và làm cho nó chảy máu. Đứa bé nước mắt lưng tròng chạy về nhà kể lể và tả oán với bố nó. Ông bố cáu tiết bèn làm một màn nói móc và chửi đổng. Ông ta vừa chạy dọc theo con đuờng duy nhất trong làng, vừa quát tháo ầm ĩ:
- Tiên sư bố nó! Nó không đẻ, nó không đau, nó dám đánh con người ta như thế kia à. Tiên sư bố nó!
Thậm chí ngay cả quí vị con nít cũng học đòi bắt chước người lớn mà nói móc, nói kháy. Thí dụ: Tí đến nhà Tèo chơi. Vì đang học đàn, nên Tèo hí hửng lấy cây guitar và gảy biểu diễn mấy bài liền, sau đó quay sang hỏi Tí:
- Bạn thấy bài nào hợp với mình nhất?
Suy nghĩ một lát, Tí lắc đầu và nói:
- Trong số những bài này, thì mình không biết, nhung mình biết có một bài rất hợp với bạn.
Tèo mừng húm:
- Bài nào vậy?
Tí tỏ vẻ bí mật, nói nhỏ vào tai Tèo:
- Bài “Đập vỡ cây đàn”.
Nói xong, Tí ôm bụng cười ngặt nghẽo, còn Tèo thì bực tức, muốn cho thằng bạn xỏ lá xơi mấy cú đấm vào mặt.
Như trên gã đã bảo: nói móc là một trong những cách thức mau chóng phá đổ tình nghĩa trong lãnh vực đời thường cũng như trong phạm vi cuộc sống gia đình. Nhất là khi người ta lại móc quá sâu và quá đậm thì thường để lại những hậu quả thảm khốc, khó mà lường nổi. Gã xin muợn đỡ một vài kinh nghiệm của tác giả Trần Triều trong bài “Bệnh kháy” đuợc đăng tải trên báo “Phụ Nữ Thứ Ba” số ra ngày 18.8.2009.
Truớc hết là trong lãnh vực đời thường.
Một tốp thanh niên đang ngồi uống bia trong quán, thì một tốp khác cũng vào và ngồi ở bàn bên cạnh. Tốp này nói với tốp kia:
- Chúng mày muốn uống bia thì phải gọi chúng tao bằng ông nội, không thì ăn đòn.
Một tên tốp kia hùng hổ tiến tới, nhung bất ngờ bị ngáng chân té lăn cù trên đất, khiến cho tốp này đều cười ồ lên. Thế là cả tốp kia đều rút lui có trật tự, nhung chỉ một lát sau liền trở lại quán với dao phay và mã tấu. Hỗn chiến xảy ra, khiến một em chết liền tại chỗ!!!
Tiếp đến là trong phạm vi cuộc sống gia đình.
Hai vợ chồng đang ngồi xem phim với nhau, đến đoạn nhân vật nam ngoại tình, chị vợ bèn phán:
- Cái thứ đàn ông mèo mả gà đồng, trăng hoa cho lắm. Một vợ thì nằm giường lèo, hai vợ thì nằm chèo queo, ba vợ thì ra chuồng heo mà nằm.
Anh chồng nóng mặt vì anh thừa biết chị mượn nhân vật trong phim để “xoáy, nghiền, bóp” cái vết thương cũ của mình. Một năm truớc, anh đi theo công trình xây dựng xuống Kiên Giang, và ở đây anh đã léng phéng chút đỉnh với cô bán cà phê, nhưng đã giải quyết dứt điểm. Chuyện tuy đã qua, nhưng hễ có dịp là chị vợ lại “móc” cho một phát. Phim đến đoạn nhân vật nữ nổi cơn ghen, anh liền “tung đòn”:
- Cái thứ đàn bà mà ghen quá đáng như vậy, có ngày mất chồng luôn mà không hay. Thằng đàn ông đã bực lên rồi thì bỏ hết, bất chấp tất cả.
Từ chỗ đang cùng ngồi coi phim một cách đầm ấm, bỗng chốc cả hai vợ chồng quay ra hầm hè, cố tìm ra những từ, những cách nói khiến “đối phương” càng đau, thì mình càng “đã”. Từ chỗ mình mình, em em, bỗng chốc biến thành cái thứ này, cái thứ nọ…
Chuyện chưa kết thúc. Bực mình chị vùng vằng bỏ vào buồng, nhưng không quên quăng lại một câu:
- Coi cái phim này, khối thằng đàn ông sáng mắt ra, bồ bịch lăng nhăng thì cứ chuồng heo mà nằm.
Anh nổi điên:
- Nằm chuồng heo còn hơn nằm với con đàn bà điêu ngoa. Thật hết chịu nổi.
Chỉ vì mấy câu nói móc mà vợ chồng đang sống chung hoà bình, bỗng chuyển biến thành chiến tranh!
Một trường hợp tương tự khác. Anh tay trắng từ miệt vườn lên Saigon lập nghiệp, cưới đuợc chị là con gái một gia đình khá giả. Thế nhưng, mẹ ruột anh lại có tính hay “bòn”, mỗi lần lên thăm anh, đều xin một vài món lặt vặt trong nhà, mà bà cho rằng các con “thừa”, không dùng đến. Chị thì chỉ “bằng mặt chứ không bằng lòng”. Còn anh thì lại chẳng quan tâm đến mấy chuyện vặt vãnh đó. Vấn đề là sau mỗi lần mẹ chồng ra về, chị lại móc:
- Tôi ghét nhất là mấy nguời đến đâu cũng góp góp nhặt nhặt. Đồ của người ta mà cứ nghĩ là không dùng đến, rồi năn nỉ ỉ ôi.
Anh nghe mà nổi nóng, vì có cảm giác mẹ mình bị xúc phạm:
- Cô muốn gì, thì cứ nói thẳng ra, chứ đừng bóng gió như thế.
Chị trêu ngươi:
- Tôi nói vu vơ vậy đó. Ai có tật thì giật mình chớ.
Anh lại càng tức điên lên, nhưng nếu mắng mỏ thì xoàng quá, phải móc lại mới được. Anh nhẹ nhàng bảo:
- Ừ, họ gom hết đồ của con trai về xài, còn hơn cái ngữ lén chồng, gom của nhà mình đưa về nhà mẹ. Mà nhà mẹ có khó khăn gì đâu, rặt một lũ lười lao động, chảy thây ra đó.
Đến lượt chị tức anh ách, nhưng đành phải nín thinh bỏ đi một mạch, bởi vì anh biết chị lén “tiếp tế” cho nhà ngoại từ lâu, nhưng làm thinh, vì nghĩ chuyện cũng chẳng đáng gì. Nhung khi bị vợ “nói đểu”, anh đã không dằn lòng được.
Một lần khác, anh tỏ ra hào hiệp cho người bạn thân vay tiền mua xe. Biết có “xin”, thì chị cũng chẳng “cho”, nên anh “tiền trảm hậu tấu”. Sau khi nghe anh “tấu”, thì điều thật lạ lùng, đó là chị không nổi giận mà lại tỏ ra dửng dưng, khinh khỉnh. Biết mình có lỗi, anh bấm bụng cho qua, coi như “kết thúc vụ án”. Vậy mà một lần chị bâng quơ nói với con:
- Con cố gắng lớn lên biết mở mắt ra một chút, chứ đừng có khôn nhà dại chợ nhé con.
Chỉ nghe câu nói đó, anh đã hất chiếc tivi bể tan, đập bẹp thêm chiếc quạt máy, rồi hầm hầm bỏ đi.
Kinh nghiệm cho thấy: Khi mâu thuẫn xảy ra, thà rằng hét toáng lên cho hả giận, hoá ra lại hay hơn là nhẹ nhàng “sửa lưng” nhau, bởi vì việc cãi vã to tiếng sẽ sớm đi vào lãng quên, còn nói móc hay nói kháy lại gây nên những vết thương lòng âm ỉ và dai dẳng. Những cặp vợ chồng xung đột trực tiếp, xem ra lại ở bền với nhau hon những cặp chơi trò nói móc và nói kháy. Nhiều khi cái “bệnh móc” này thấm sâu vào lục phủ ngũ tạng, đến nỗi một chuyện nhỏ cũng trở thành chuyện lớn. Chẳng hạn, anh chồng húp bát canh thấy mặn, thay vì nói thẳng, thì lại nói bóng nói gió:
- Canh hôm nay nhạt nhỉ?
Chị vợ bực vì bị chồng “nói đểu”, tức vì đã là vợ chồng với nhau nhưng lại không trao đổi thật lòng. Chuyện nhỏ mà bị móc sẽ hoá thành chuyện lớn. Và chuyện lớn mà bị móc thêm, sẽ dễ nổ tung như trái lựu đạn.
Một anh chồng đã tâm sự như sau: Hồi mới cưới, chúng tôi cũng đã từng cạnh khoé với nhau dữ lắm. Tôi quyết tâm sửa là vì sau mỗi lần nói móc, dù đạt được mục đích tức thời là làm cho vợ tức điên lên, nhưng sau đó ngẫm lại, thấy bản thân mình cứ hèn hèn sao ấy… Ngược lại, vợ bóng bóng gió gió, tôi cũng tức điên lên và ghét cay ghét đắng cái tật ấy. Từ đó, mỗi lần vợ mở miệng ra định móc, tôi liền cương quyết:
- Muốn nói gì thì nói thẳng, hoặc đừng nói gì cả.
Dần dần thói quen nói thẳng và nói thật được hình thành. Ngồi vào bàn ăn thấy thiếu tương ớt thì nói thẳng:
- Em ơi, còn thiếu tương ớt.
Chứ hồi còn mắc bệnh “móc”, thế nào tôi cũng nói:
- Hình như độ này em chăm làm đẹp quá, sợ mặt nổi mụn nên kiêng ăn tương ớt đó à?
Tóm lại, các cụ ta ngày xưa đã bảo: Nói gần nói xa, chẳng qua nói thật. Hay như một câu danh ngôn cũng đã khuyên nhủ: Hãy ngoáy lưỡi bảy lần truớc khi nói, để mỗi lời chúng ta nói ra sẽ là một góp phần vào việc tạo nên một bầu khí hoà thuận và bắc đuợc một nhịp cầu cảm thông:
Lời nói chẳng mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
- See more at: http://www.lamhong.org/2011/11/07/noi-moc/#sthash.l8lj3XeO.dpuf

Thứ Bảy, 21 tháng 9, 2013

CỔ LOA - KĨ THUẬT XÂY THÀNH CỦA NGUOI VIỆT CỔ



LỜI NÓI ĐẦU
Năm 1962, Cổ Loa được xếp hạng di tích lịch sử - văn hoá cấp nhà nước. Nó có đầy đủ các loại hình di tích: Đình, đền, chùa, am, miếu. Trong đó hàm chứa biết bao giá trị văn hoá của người Việt qua bao thế hệ.
Thời Hùng Vương, Cổ Loa là đất thuộc bộ lạc Tây Vu. Sau khi An Dương lên trị vì nước Âu Lạc. Cổ Loa trở thành kinh đô của nhà nước Âu Lạc (thế kỷ III TCN). Qua các giai đoạn lịch sử, Cổ Loa có rất nhiều tên như: Loa thành (thành ốc), thành Côn Lôn, thành Tư Long, Cửu thành, Thành Việt Vương, thành Khả Lũ, Cổ Loa thành. Đến thế kỷ thứ X, Ngô Quyền lên ngôi vua, Cổ Loa lại trở thành kinh đô của nước ta lần thứ hai. Có thể thấy, Cổ Loa đã giữ vai trò vô cùng quan trọng trong lịch sử dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc ta.
Thành Cổ Loa là một di tích hiện vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là “tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ”.
Do những đặc điểm kiến trúc đặc biệt và độc đáo, công trình được gọi là Cổ Loa. Tương truyền thành gồm 9 vòng xoáy trôn ốc, nhưng căn cứ trên dấu tích hiện còn, các nhà khoa học nhận thấy thành chỉ còn có 3 vòng: thành Nội, thành Trung và thành Ngoại theo cách gọi của người Cổ Loa. Trong đó vòng thành nội rất có thể được làm về sau, thời Ngô Quyền.
VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
Cổ Loa nằm ờ vị trí khá đặc biệt, nó thuộc về phần “thượng đỉnh” của tam giác châu và gần như trên trục chính của tam giác châu sông Hồng, Cổ Loa là một khu đất đồi cao ráo nằm ở tả ngạn sông Thiếp. Sông Thiếp là một nhánh sông quan trọng của sông Hồng, nối liền sông Hồng với sông Cầu trong hệ thống sông Thái Bình. Là nơi giao lưu quan trọng của đường thủy và đường bộ. Từ đây có thể kiểm soát được cả vùng đồng bằng lẫn vùng núi. Khu vực Cổ loa có những gờ, mộc hay con trạch, sống đất cao 11-13m, nằm cạnh những dãy đất thấp từ 5-6m, thường tạo nước, tạo thành những đầm hồ. Có khi là những khúc sông cũ hình móng ngựa của “tứ giác nước”: sông Cà Lồ (phía Bắc), sông Thiên Đức (phía Nam), sông Hồng (phía Tây), sông Cầu (phía Đông) và sông Thiếp chảy qua lũy thành Cổ Loa. Địa hình về phía tây bắc Cổ loa là đồi núi với Núi Sái, ở phía Nam là núi Tiêu Sơn – Phật Tích, Núi Chè, Long Khánh, Hồng Vân.
Về phương diện giao thông đường thủy, Cổ Loa có một vị trí vô cùng thuận lợi. Nó chi phối toàn bộ hệ thống đường thủy tại Bắc bộ Việt Nam. Đó là vị trí nối liền mạng lưới đường thủy của sông Hồng cùng với mạng lưới đường thủy của sông Thái Bình. Qua sông Thiếp, thuyền bè ngược lên sông Hồng là đến vùng Bắc hay Tây Bắc của Bắc Bộ, nếu xuôi sông Hồng, sẽ ra đến biển, nếu đến vùng phía Đông Bắc bộ thì qua sông Cầu vào hệ thống sông Thái Bình đến sông Thương và sông Lục Nam.
Địa điểm Cổ Loa chính là đất Phong Khê, lúc đó là một vùng đồng bằng trù phú có xóm làng, dân cư đông đúc, sống bằng nghề làm ruộng, đánh cá và thủ công nghiệp. Việc dời đô từ Phong Châu về đây, đánh dấu một giai đoạn phát triển của dân cư người Việt cổ, giai đoạn người Việt chuyển trung tâm quyền lực từ vùng Trung du bán sơn địa về định cư tại vùng đồng bằng, chứng tỏ một bước tiến lớn trong các lĩnh vực xã hội, kinh tế, dễ dàng đi lại bằng đường bộ hay bằng đường thủy. Trong nông nghiệp có bước tiến đáng kể về kỹ thuật trồng lúa nước, mức độ dân cư cũng đông đúc hơn.
Hiện tại, trên bản đồ hành chính, khu thành cũ của An Dương Vương nay thuộc xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, ngoại thành phía Bắc Hà Nội. Cổ Loa nằm giữa một vùng sông ngòi chằng chịt, phía Bắc có sông Cà Lồ, phía Nam có sông Đuống, còn sông Hoàng Giang (xưa là một chi lưu của sông Hồng) len lỏi quanh chân thành.
CẤU TRÚC THÀNH
Thành Cổ Loa theo tương truyền gồm 9 vòng xoáy trôn ốc, nhưng hiện chỉ còn tồn tại 3 vòng thành. Sở dĩ tường thành cổ quái như vậy là vì người xưa đã biết tận dụng triệt để những gò đất tự nhiên, đắp nối chúng lại để làm tường thành. Vì vậy, nếu không am tường, những kẻ lạ  khi đột nhập vào thành sẽ như đi lạc vào một hệ thống mê cung. Vì lẽ đó, thành Cổ Loa được đánh giá là một khu quân sự hoàn hảo, vừa thuận lợi khi tấn công, vừa vững chắc khi phòng thủ.
Nhìn vào di tích thành Cổ Loa, ta thấy có ba vòng thành khép kín, đó là thành nội (Kiển thành), thành trung và thành ngoài.
+ Thành Nội hình chữ nhật, cao trung bình 5m so với mặt đất, mặt thành rộng từ 6m-12m, chân rộng từ 20m-30m, chu vi 1.650m
+ Thành Trung là một vòng thành không có khuôn hình cân xứng, chu vi 6.500m, nơi cao nhất là 10m, mặt thành rộng trung bình 10m, có năm cửa ở các hướng đông, nam, bắc, tây bắc và tây nam, trong đó cửa đông ăn thông với sông Hoàng.
+ Thành Ngoại không còn hình dáng rõ ràng, chu vi hơn 8.000m, cao trung bình 3m-4m (có chỗ tới hơn 8m).
Mỗi vòng thành đều có hào nước bao quanh bên ngoài, hào rộng trung bình từ 10m đến 30m. Các vòng hào đều thông với nhau và thông với sông Hoàng. Sự kết hợp của sông, hào và tường thành không có hình dạng nhất định, khiến thành như một mê cung. Sông Hoàng được dùng làm hào thiên nhiên cho thành Ngoại ở về phía Tây Nam và Nam. Phần hào còn lại được đào sát chân tường thành từ gò Cột Cờ đến Đầm Cả. Con hào này nối với hào của thành Trung ở Đầm Cả và Xóm Mít, chảy qua cửa Cống Song nối với năm con lạch, vào vòng hào của thành Nội. Thuyền bè đi lại dễ dàng trên ba vòng hào để đến trú đậu ở Đầm Cả hoặc ra sông Hoàng và từ đó có thể tỏa đi khắp nơi. Dưới chân các lũy thành đều có hào nước để ngăn cản quân địch, đồng thời là đường giao thông thủy quan trọng nối liền các khu vực trong thành và cũng là con đường thoát ra khỏi thành khi có nguy hiểm. Có thể coi hệ thống thành hào của thành Cổ Loa như những chi lưu của sông Hoàng. Vào mùa nước, khi mực nước sông Hoàng dâng cao, các lòng hào đều đầy ắp nước. Với chiều rộng từ 20-30m, thuyền bè từ sông Hoàng có thể vào, ra thành một cách dễ dàng.
Trong cấu trúc chung của thành Cổ Loa còn có một yếu tố khác làm phong phú thêm tổng thể kiến trúc này. Đó là những gò đất dài hoặc tròn được đắp rải rác giữa các vòng thành hoặc nằm ngoài thành Ngoại, được dân chúng gọi là Đống Dân, Đống Chuông, Đống Bắn. Các ụ, lũy này được dùng làm công sự, có nhiệm vụ của những pháo đài tiền vệ, phối hợp với thành, hào trong việc bảo vệ và chiến đấu.
Các vòng tường thành Cổ Loa có các cửa khác nhau. Thành Nội chỉ mở một cửa quay về hướng nam, trông ra đình Cổ Loa. Thành Trung mở bốn cửa: cửa Nam, cửa Bắc, cửa Tây Bắc và cửa Tây Nam. Mỗi cửa có một miếu xây trên mặt tường thành - thờ quan coi cổng thành. Riêng cửa Nam, nơi hai vòng thành gặp nhau và có lẽ cũng là cửa chính được xây hai miếu ở hai bên. Thành Ngoại tuy dài và rộng nhưng cũng chỉ mở ba cửa: cửa Nam, cửa Bắc và cửa Tây Nam. Cả ba lớp thành được nối liền bằng một cửa lớn gọi là Loa Khẩu ở phía Đông Nam. Các cửa còn lại của 3 vòng thành cũng được bố trí rất khéo; không hề nằm cùng trên một trục thẳng mà lệch chéo đi rất nhiều. Do đó đường nối hai cửa thành ở cùng một hướng đều là một đường quanh co, lại có ụ phòng ngự ở hai bên nên gây rất nhiều trở ngại cho quân địch khi tiến đánh thành. Ngoài tám cửa thành trên, còn có hai cửa ra bằng đường thủy gọi là “cửa nước”. Cửa thứ nhất mở ra hướng đông, nơi nối các dòng chảy trong thành qua cống Cửa Song ra sông Hoàng. Cửa thứ hai dưới chân gò Cột Cờ.
Rải rác trong thành còn có một số địa danh khác có liên quan tới chức năng quân sự của thành như: dọc Đống Bắn-tương truyền là nơi luyện cung nỏ của quân đội, Ngự Xạ Đài-nơi An Dương Vương ngồi xem quân lính tập bắn cung nỏ, Vườn Thuyền-là nơi thuyền bè neo đậu chuẩn bị tập luyện thủy chiến, gò Cột Cờ là nơi treo lá cờ đại của Nhà nước Âu Lạc…
XÂY THÀNH
Thành Cổ Loa là một công trình quân sự vĩ đại và độc đáo nhất của cha ông ta buổi đầu thời kì dựng nước và giữ nước. Kết quả khai quật một phần tường thành ngoại cho thấy, để xây dựng được một thành lớn như Cổ Loa chắc chắn cần phải có một lực lượng quân sự hùng mạnh và sự quản lý kiểu nhà nước chặc chẽ. 
Khi xây thành, người Việt cổ đã biết lợi dụng địa hình tự nhiên, tận dụng chiều cao của các đồi, gò, đắp thêm đất cho cao hơn để xây nên hai bức tường thành phía ngoài và thành giữa, vì thế hai bức tường thành này có đường nét uốn lượn theo địa hình tự nhiên tạo thành một vòng tường không có hình dạng cụ thể, do vậy khoảng cách giữa hai vòng thành không đều nhau. Càng về phía nam hai vòng càng gần nhau, cuối cùng được nối liền, chừa một khoảng trống làm cửa thành (cửa Trấn Nam) - lối vào chính.
Chất liệu chủ yếu dùng để xây thành là đất, sau đó là đá và gốm vỡ. Đá được dùng để kè cho chân thành được vững chắc. Các đoạn thành ven sông, ven đầm được kè nhiều đá hơn các đoạn khác. Đá kè là loại đá tảng lớn và đá cuội được chở tới từ các miền khác đến. Xen giữa đám đất đá là những lớp gốm được rải dày mỏng khác nhau, nhiều nhất là ở chân thành và rìa thành để chống sụt lở.
Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong thoãi để ngoài đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4m-5m, có chỗ cao đến 8m-12m. Chân lũy rộng 20m-30m, mặt lũy rộng 6m-12m. “Khai quật cho thấy các lớp đất riêng biệt, từ đó có thể bước đầu đưa ra các giai đoạn đắp thành kỹ và đắp thêm thành”, TS Trịnh Hoàng Hiệp, Viện Khảo cổ cho biết. Có tới 4 giai đoạn đắp thành lũy. Giai đoạn đầu đắp bằng lớp đất đỏ sẫm lẫn hạt sạn sỏi nhỏ, nền rất cứng. Giai đoạn hai đắp thêm bằng đất xám đen lẫn đất sét màu xám trắng. Giai đoạn ba đắp đất có lẫn mảnh ngói và cuối cùng đắp đất màu vàng sáng lẫn đất sét xám trắng. Việc đắp thêm lũy cũng được thực hiện 2 lần, nhằm gia cố.
Như vậy, gần 15.000m tường thành Cổ Loa có cùng một đặc điểm xây dựng là triệt để lợi dụng địa thế tự nhiên, đắp vòng nối với nhau, tạo thành một hình xoáy trôn ốc nên được gọi là Loa thành. Cách đắp này từ xưa đến nay chưa nơi nào có giống. Chính nhờ phương pháp đắp nối nên trong một thời gian rất ngắn, với nhân lực không đông, sử dụng công cụ bằng đồng, An Dương Vương Thục Phán đã xây dựng được một công trình đồ sộ hiếm thấy. Phương pháp đào hào của dân Âu Lạc cũng có tính sáng tạo đáng kể. Đất hào đắp lên tường vừa giải quyết vấn đề vật liệu, vừa tăng thêm một vòng chướng ngại. Người xưa đã đạt được thành công kép, giảm được phân nửa công sức và nhân đôi mức độ hiểm trở của tòa thành.
Riêng thành Nội, Theo giáo sư Đỗ Văn Ninh, vòng thành trong cùng (Kiển thành-thành nội) vẫn còn tồn tại, Sự thực, Kiển thành là do tướng Mã Viện của nhà Hán xây sau khi đánh thắng Hai bà Trưng. Về mặt kiến trúc, Kiển thành được đắp thành hình chữ nhật, chu vi 1.600m, mặt thành cao 10m. Thành chỉ mở một cửa ở chính giữa mặt tường phía nam và cũng có hào bao quanh. Đáng chú ý là thành có đắp 12 hồi (ụ đất) nhô ra ngoài rất cân xứng, mỗi mặt có bốn hồi.
Kiển thành (thanh nội) là thành hình con kén. Nhà sử học Đào Duy Anh cho rằng Kiển thành là nhân địa điểm cũ mà xây lên. Những phát hiện khảo cổ học cũng chứng minh điều đó. Vì địa thế vùng Phong Khê rất thuận lợi nên Mã Viện đã chọn Cổ Loa (nơi mà 300 năm trước đó, An Dương Vương đã định đô để đắp Loa Thành) làm trị sở, sửa sang hai bên vòng thành cũ của An Dương Vương làm “vỏ kén”, đồng thời đắp Kiển thành làm “con nhộng” của mình.
Như vậy, trên đất nước Âu Lạc, đã có một kinh thành Cổ Loa xây dựng vào thế kỷ thứ 3 trước công nguyên và một Kiển thành, trị sở huyện Phong Khê, xây vào thế kỷ thứ nhất trước công nguyên.

ĐÁNH GIÁ
Về mặt quân sự, thành Cổ Loa không chỉ vĩ đại về mặt quy mô, Loa Thành còn thể hiện sự sáng tạo, tri thức quân sự hết sức độc đáo của người Việt cổ trong công cuộc giữ nước và chống ngoại xâm. Với các bức thành kiên cố, với hào sâu rộng cùng các ụ, lũy, Cổ Loa là một căn cứ phòng thủ vững chắc để bảo vệ nhà vua, triều đình và kinh đô. Đồng thời là một căn cứ kết hợp hài hòa thủy binh cùng bộ binh, khi tác chiến.
Cuốn Lịch sử kỹ thuật quân sự Việt Nam có ghi lại, Cổ Loa là một công trình phòng vệ kiên cố trong điều kiện chưa có hỏa khí bắn xa. Nếu như kẻ địch tấn công từ bên ngoài vào, chúng sẽ gặp phải đòn đánh phủ đầu từ những lũy tiền vệ bên ngoài. Qua lũy tiền vệ này, để tiến vào tới đường thành còn phải vượt qua một khoảng trống lớn. Với tầm bắn của cung nỏ cứng, quân đứng trên tường thành Ngoại có thể ngăn chặn được bước tiến của kẻ thù. Một khi vượt qua được khoảng trống đó, trước mặt kẻ tấn công là hệ thống ngoại hào rộng từ 20-30m. Không thể dễ dàng vượt qua được hào nước này, một khi quân trên mặt tường thành bắn xuống, thủy quân với những thuyền nhỏ phục sẵn sẽ lao ra sẵn sàng phối hợp tác chiến. Nếu vượt qua được ngoại hào thì trước mặt chúng là tường thành Ngoại kiên cố, cao từ 8-10m. Vượt qua được thành Ngoại để vào được nơi vua và hoàng tộc ở, kẻ địch còn phải vượt qua hai lớp hào và thành nữa. Đó là chưa kể đến những trận địa được bố trí ở giữa hai lớp thành.
Không chỉ là một căn cứ bộ binh hiểm yếu, Cổ Loa còn là một căn cứ thủy quân lợi hại. Sông Hoàng-ngoại hào thiên nhiên của Cổ Loa, đầu trên nối với sông Hồng, đoạn dưới nối với sông Cầu, qua cửa Lục Đầu ở Phả Lại, có thể đi thẳng ra biển. Nước của hai con sông lớn nhất trên châu thổ đã qua sông Hoàng, đổ vào hệ thống rồi chảy ra Đầm Cả mênh mông ở góc đông bắc thành. Diện tích mặt đầm có thể chứa hàng trăm thuyền bè. Với một hệ thống đường thủy được thiết kế tài tình như vậy, thuyền chiến có thể đi lại khắp nơi trong thành và khi cần, những đạo quân trong thành có thể dễ dàng ra khỏi thành bằng tiếp cứu cho thành nếu bị vây hãm.
Về mặt xã hội, với sự phân bố từng khu cư trú cho vua, quan, binh lính, thành Cổ Loa là một chứng cứ về sự phân hóa của xã hội thời ấy. Thời kỳ này, vua quan không những đã tách khỏi dân chúng mà còn phải được bảo vệ chặt chẽ, xã hội đã có giai cấp rõ ràng hơn thời Vua Hùng. Để xây dựng được thành lớn như Cổ Loa chắc chắn cần phải có một lực lượng quân sự hùng mạnh cùng sự quản lý kiểu nhà nước và tập trung hóa đáng kể. Ngoài ra, những yêu cầu cao về lao động, xây dựng cũng cho thấy mật độ dân số cao. Dân số lớn tại thành Cổ Loa là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Nó bắt nguồn và cũng đem lại tiềm năng nông nghiệp trồng lúa lớn ở khu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng.
Về mặt văn hóa, là một tòa thành cổ nhất còn để lại dấu tích, Cổ Loa trở thành một di sản văn hóa, một bằng chứng về sự sáng tạo, về trình độ kỹ thuật cũng như văn hóa của người Việt Cổ. Đá kè chân thành, gốm rải rìa thành, hào nước quanh co, ụ lũy phức tạp, hỏa mai chắc chắn và nhất là địa hình hiểm trở ngoằn ngoèo, tất cả làm nên nghệ thuật kiến trúc và văn hóa thời An Dương Vương.
KẾT LUẬN
Cổ Loa, một công trình phòng thủ vĩ đại, không chỉ tồn tại trong niềm tự hào của nhân dân Cổ Loa, trong truyền thuyết mà còn được ghi lại trong rất nhiều bộ sử của cả hai nước Việt Nam và Trung Quốc như Hậu Hán thư, Nam Việt chí, Thủy kinh chú, Tùy thư, An Nam chí lược, Việt kiệu thư, An Nam chí nguyên. Ở Việt Nam, các bộ sách Đại Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Lĩnh Nam chích quái, Dư địa chí, Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam nhất thống chí,… đều nói tới tòa thành do An Dương Vương xây dựng ở Cổ Loa.
Một trong những sáng tạo tuyệt vời của thiết kế thành là, biết tận dụng triệt để các gò đất cao tự nhiên đắp nối liền chúng lại với nhau tạo nên những vòng thành khép kín, nhờ vậy đã tiết kiệm được rất nhiều sức lao động của con người và tiền của. Cũng chính vì vậy, mà thành Trung và thành Ngoại uốn lượn tự do không có hình dáng cân xứng và chặt chẽ. Yêu cầu về cái đẹp đã bị đẩy xuống hàng thứ yếu, mối quan tâm hàng đầu là tính chất kiên cố của một công trình quân sự.
Kho tàng truyền thuyết về Cổ Loa cho thấy công cuộc xây dựng thành vô cùng gian khó. Nguyên nhân là do thành xây trên vùng đất nhiều ao hồ lầy thụt và thời điểm đó những cuộc xung đột bộ lạc vẫn chưa chấm dứt. Tuy vậy, nhờ kinh nghiệm và sức mạnh của các bộ lạc vùng thấp, An Dương Vương đã chinh phục được các lực lượng chống đối và áp dụng kinh nghiệm chống lầy thụt của họ mới có thể thành công trong việc xây thành.
Với kiến trúc độc đáo và kỹ thuật xây dựng thành quách đặc biệt, Cổ Loa xứng đáng là một công trình quân sự đồ sộ, một kỳ công lao động, một sự hội tụ tài trí và thể hiện lòng yêu nước thiết tha của dân tộc trong buổi đầu dựng nước và giữ nước.
Thành Cổ Loa là một công trình quân sự vĩ đại và độc đáo nhất của cha ông ta buổi đầu dựng nước và giữ nước.
Hiện nay Cổ Loa là 1 trong 21 khu du lịch quốc gia Việt Nam và vào ngày 6/1/2013 âm lịch cổ loa đã được công nhận là di tích lịch sử quốc gia đặc biệt.
Trải qua nhiều triều đại, nhiều thế kỷ với bao thăng trầm lịch sử, đến ngày nay các công trình đã trải qua nhiều lần trùng tu sửa chữa để tồn tại, một số còn giữ được cốt cách nguyên sơ song cũng có nhiều công trình bị pha tạp do nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Tuy nhiên, những công trình này vẫn là dấu tích cụ thể ghi lại chặng đường sáng tạo và lao động nghệ thuật, mang dấu ấn lịch sử dân tộc rất rõ nét.
Loa Thành là di sản văn hóa, là bằng chứng về sự sáng tạo và trình độ của người Việt lúc bấy giờ. Đối với người dân nơi đây, ngày nay Cổ Loa vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần và sinh hoạt văn hóa.
Dân gian có câu:
“Thứ nhất lễ hội Cổ Loa, Thứ hai hội Gióng, thứ ba hội Chèm”.  

Thứ Bảy, 24 tháng 8, 2013

HAI NỀN VĂN MINH INCA VÀ AI CẬP


Thời gian tồn tại của hai nền văn minh Inca và Ai Cập là một khoảng cách rất lớn. Tuy nhiên, dù có sự cách biệt về không gian và thời gian tồn tại thì hai nền văn minh này vẫn là những đóng góp lớn lao cho văn minh nhân loại. Hơn thế nữa, người ta nhận thấy rất nhiều điểm tương đồng giữa hai nền văn minh này trong cả đời sống vật chất lẫn tinh thần.  
Thời kỳ mà chúng ta thường coi là Ai Cập cổ đại cũng là thời kỳ mà các pharaông trị vì Ai Cập, tức là từ năm 3000 trước Công nguyên. Vào sơ kỳ của Thời đại Đồ đá, dân cư Ai Cập đã sinh sống tại các vùng khá cao so với mực nước biển, gần sông Nil, từ vùng châu thổ đến Aswan. Kể từ khoảng 5000 năm trước Công nguyên, những người di cư từ Palextin và Xiri, từ các bộ lạc Libi ở phía tây, từ Nubia ở phía nam đã tới định cư ở Ai Cập. Một số người đã bị hấp dẫn bởi đất đai màu mỡ của xứ xở này nên đã ở lại nơi đây. Những cư dân đầu tiên của Ai Cập đã bắt đầu trồng lúa mạch, nuôi gia súc, lập nên những xóm làng với những túp lều vách đất trên đồng bằng đất bồi, ở đó họ được an toàn trước những trận lụt hàng năm của sông Nil. Người ta tìm thấy những phiến bằng đá, những vật bằng ngà voi được chạm khắc tinh vi, hay các khay bằng đá cùng những ấm chén rất đẹp được chôn cùng với chủ nhân của chúng trong những hầm mộ có niên đại sớm hơn 3000 năm trước Công nguyên. Đó chính là những dấu tích của văn minh Ai Cập.
Những gì người ta biết được về Inca không nhiều như Ai Cập bởi người Inca không có hệ thống chữ viết. Vì thế, việc xác định thời gian tồn tại của nền văn minh này đến nay vẫn là một câu hỏi. Inca- một vương quốc rộng lớn nằm trên dãy núi Andes thuộc Nam Mỹ, được tạo ra bởi người Quechua, một tộc người bản đia tại châu Mỹ vào thế kỷ 15 sau Công nguyên. Phần lớn những gì người ta biết được về người Inca bắt nguồn từ những ghi chép của người Tây Ban Nha xâm lược vào thế kỷ 16 còn trước đó đế chế Inca tồn tại từ bao giờ vẫn chưa xác định được. Nhiều người cho rằng nền văn minh Inca còn tồn tại sớm hơn văn minh Ai Cập, tuy nhiên vẫn chưa có bằng chứng chứng minh được điều này. Người Inca đã xây dựng được một nền văn minh phong phú và rực rỡ với hơn 9 triệu dân.
Người Inca đã chinh phục được một số bộ tộc láng giềng khi họ mở rộng khu vực ảnh hưởng ra khỏi thung lũng Cuzco thuộc cao nguyên của Peru ngày nay. Đất đai của Inca dần dần lên tới 906.500km2. Phần lãnh thổ này kéo dài từ đình của dãy Andes, mở rộng sang bờ Thái Bình Dương và lưu vực Amazon. Trung tâm chính trị của Inca thuộc Peru ngày nay và lãnh thổ Inca bao gồm Ecuardo, Bolivia, bắc Chile và tây bắc ArgentinAi Cập. Địa hình vùng này là những cao nguyên đồng cỏ, rừng cây bụi thấp, sa mạc và các thung lũng sông màu mỡ.
Hầu hết các ý kiến và nghiên cứu đều cho rằng văn hoá của người Inca phát triển từ các nền văn minh châu Mỹ bản địa sớm hơn ở vùng Andes. Theo truyền thuyết, người Inca được biết đến là những nhóm nhỏ những người hiếu chiến và sống gần Hồ Titicaca thuộc đông nam Peru trước thế kỷ 13.

2. Không gian tồn tại
Nền văn minh Ai Cập còn gọi là nền văn minh sông Nil bởi chính con sông này đã tạo ra nơi sản sinh ra một trong các nền văn minh sớm nhất thế giới này. Sông Nile là con sông dài nhất thế giới, có bảy nhánh đổ ra Địa Trung Hải. Phần hạ lưu sông Nile rộng lớn, giống như hình tam giác dài 700km, hai bên bờ sông rộng từ 10 đến 50km, tạo thành một vùng sinh thái ngập nước – một đồng bằng phì nhiêu với động thực vật đa dạng và đông đúc. Hàng năm từ tháng 6 đến tháng 9, nước lũ sông Nile dâng lên làm tràn cả khu đồng bằng rộng lớn và bồi đắp một lượng phù sa khổng lồ, màu mỡ. Các loại thực vật chủ yếu như: đại mạch, tiểu mạch, chà là, sen… sinh sôi nảy nở quanh năm. Ai Cập cũng có quần thể động vật đa dạng và phong phú, mang đặc điểm đồng bằng – sa mạc như voi, hươu cao cổ, sư tử, trâu, bò, cá sấu, các loài cá, chim… Tất cả những điều kiện thiên nhiên ưu đãi đã góp phần hình thành nền văn minh Ai Cập sớm nhất.
Tồn tại trong bối cảnh lịch sử khác nhau và ở hai khu vực khác nhau, môi trường sống của người Inca cũng khác so với người Ai Cập. Với khí hậu khắc nghiệt và địa hình núi cao của dãy Andes, điều kiện tưới tiêu nông nghiệp và giao thông của người Inca khó khăn hơn so với người Ai Cập. Tuy nhiên, họ cũng chọn được cho minh các hình thức sản xuất phù hợp. Từ duy trì được nguồn lương thực họ tạo dựng được những giá trị về đời sống vật chất và tinh thần. Tất cả những yếu tố đó làm nên nền văn minh Inca.
Văn minh Ai Cập được hình thành trong điều kiện thiên nhiên thuận lợi, hài hoà hơn so với văn minh Inca. Tuy nhiên, một điều đáng ghi nhận đó là sự nỗ lực cải tạo thiên nhiên và xây dựng nên những giá trị tốt đẹp của cư dân thuộc hai nền văn minh này. Những giá trị ấy dù ít hay nhiều vẫn tồn tại cho đến ngày nay được ghi nhận như những di sản lớn mà người xưa để lại cho nhân loại.

3. Nguyên nhân sụp đổ của hai nền văn minh
Bất kỳ một thực thể nào tồn tại trên Trái Đất đều nằm trong quy luật hình thành, phát triển rồi suy tàn và được thay thế bởi những thực thể mới. Do những điều kiện chủ quan lẫn khách quan về yếu tố con người, môi trường, hoàn cảnh lịch sử mà hai nền văn minh Inca và Ai Cập đã không tránh được sự sụp đổ cho dù những giá trị về văn hoá mà họ xây dựng được là vô cùng to lớn.
Từ thế kỷ X trước Công nguyên, Ai Cập hết bị chia cắt bởi những mâu thuẫn giữa các tầng lớp trong xã hội lại bị ngoại tộc thống trị. Đặc biệt, từ năm 525 trước Công nguyên, Ai Cập bị nhập vào đế quốc Ba Tư ở Tây Á. Năm 332 trước Công nguyên, Ai Cập bị Alexandre ở Makedonia chinh phục. Sau khi đế quốc Makedonia tan rã, Ai Cập thuộc quyền thống trị của một vương triều Hy Lạp gọi là vương triều Ptoleme (305 – 30 trước Công nguyên). Đến năm 30 trước Công nguyên, Ai Cập thành một tỉnh của đế quốc La Mã. Từ đó cho đến nay, những gì người ta biết được về nền văn minh Ai Cập là nhờ những di sản văn hoá mà họ để lại. Nền văn minh Ai Cập phát triển rực rỡ một thời kết thúc do sự xâm chiếm của đế chế La Mã.
Muộn hơn rất nhiều sơ với văn minh Ai Cập, văn minh Inca cũng như những nền văn minh khác tồn tại ở Nam Mỹ đã bị thực dân phương nhòm ngó khi lục địa mới này được khám phá. Năm 1532, người Tây Ban Nha đầu tiên là Francisco Pizzaro đã đặt chân tới đế quốc Inca. Sự giàu có ở nơi đây đã khiến người Tây Ban Nha nổi lòng tham và muốn chinh phục. Ngay từ vài năm trước đó người Inca đã mắc phải những bệnh mà trước nay họ chưa từng có (đậu mùa và sởi), lan truyền qua Trung Mỹ đến phía nam với hậu quả chết người. Khi Pizzaro đến, vương quốc Inca không còn là một vương quốc hùng cường nữa mà là một quốc gia đang chìm đắm trong cuộc chiến kế thừa giữa hai anh em AtahualpaHuascar. Cuộc nội chiến này đã lay chuyển nền móng của vương quốc và sự bất bình của các dân tộc bị thống trị càng làm cho quốc gia này nhanh chóng sụp đổ. Tuy vậy, cuộc chinh phục của người Tây Ban Nha đối với đế chế Inca không hề dễ dàng. Mãi đến năm 1572, người Inca mới bị chinh phục hoàn toàn. Lịch sử 100 năm của đế chế Inca kết thúc.
Qua nhiều thế kỷ nhưng những giá trị mà người Inca và Ai Cập tạo dựng được vẫn tồn tại bền vững và có một điểm đặc biệt là rất nhiều điểm tương đồng được nhận thấy giữa hai nền văn minh này.
Những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai nền văn minh Inca và Ai Cập được thể hiện qua các giá trị văn hoá vật chất lẫn tinh thần mà họ tạo dựng nên.
Một điểm chung có thể nhận thấy trong hoạt động sản xuất của người Inca và Ai Cập là họ cùng là những cư dân nông nghiệp, trồng trọt và chăn nuôi đóng vai trò chủ đạo trong đời sống của họ. Tuy nhiên, điểm khác biệt nằm ở điều kiện thiên nhiên giành sự ưu đãi nhất định cho họ. Có thể nói, người Ai Cập có điều kiện thuận lợi hơn trong các hoạt động kinh tế so với người Inca. Nhưng họ đều tìm ra những cách thích hợp để thích nghi được với môi trường sinh sống.
Sa mạc còn gọi là vùng Đất Đỏ, chiếm hơn 90% diện tích Ai Cập, nhưng chỉ có một số khu dân cư nhỏ ở các thung lũng sông và các ốc đảo. Người Ai Cập sống trên hai bờ sông Nil hoặc bên cạnh những kênh đào từ sông Nil toả ra. Gần sông Nil có vùng Kemet, hoặc là vùng Đất Đen (vì đất ở đây có màu đen sẫm, rất màu mỡ), ở đó nông dân gieo trồng ngũ cốc. Nếu không có vùng đất màu mỡ này thì hẳn sẽ chẳng có nền văn minh nào ở Ai Cập. Từ những thời kỳ xa xưa cho đến tận ngày nay, đối với đa số dân cư Ai Cập, lối sống của họ phụ thuộc vào việc khai thác các tài nguyên nông nghiệp phong phú ở đây. Nước lụt của sông Nil mở đầu một năm làm ăn cho người nông dân Ai Cập, khi mà nước dâng đầy cửa sông Nil Xanh và sông Nil Trắng, hội lưu đúng ở phía bắc thành phố Khactum của Sudan làm cho sông Nil mang phù sa đổ vào Ai Cập. Khi nước sông Nil rút xuống, nông dân Ai Cập làm đất gieo lúa mạch và lúa mì. Kết quả thường là một vụ gặt bội thu vào mùa hè. Việc làm nông nghiệp của người Ai Cập cũng được hỗ trợ bằng nhiều loại nông cụ, họ còn biết đào kênh để dẫn nước vào ruộng. Bên cạnh trồng trọt, chăn nuôi cũng đóng vai trò rất quan trọng đối với người Ai Cập. Số gia súc mà một người Ai Cập cổ đại làm chủ là thước đo quan trọng về mức độ giàu có của người đó. Dù điều kiện tự nhiên hỗ trợ nhiều cho nông nghiệp của người Ai Cập nhưng gặp năm thời tiết khắc nghiệt, mùa màng cũng có khi thất bát, dân chúng có thể bị đói trầm trọng.
Cuộc sống của người Inca cũng dựa vào nông nghiệp và việc sử dụng cẩn trọng các nguồn tài nguyên thiên nhiên thưa thớt. Để đề phòng nạn đói và cung cấp lương thực cho dân số khổng lồ so với điều kiện trên núi cao, gần như toàn bộ các sườn đồi, núi đều được canh tác theo hình bậc thang và được tưới nước bằng kênh đào. Lương thực dư thừa được trữ trong các nhà kho đặc biệt, bảo vệ chống mưa và trong đó có gió thổi tuần hoàn để chống hư thối. Ngô, khoai tây, hạt qinoa (hạt diêm mạch), bí, cà chua, lạc và ớt được trồng trên các cánh đồng bậc thang trên cao. Họ nuôi Ilama (lạc đà không bướu), vịt, alpaca và chuột lang làm gia súc, lấy len lạc đà, lấy thịt ăn và để chở hàng hoá.
Chính nhờ sự linh hoạt mà người Inca và Ai Cập đã thích nghi với những điều kiện sống dù là khắc nghiệt hay thuận lợi. Không chỉ duy trì cuộc sống mà họ còn phát minh ra những công cụ lao động, những kỹ thuật canh tác trong nông nghiệp… và tất cả đều có thể coi là những giá trị văn hoá vật chất to lớn của hai nền văn minh này.

Xã hội Inca và Ai Cập còn được biết bởi sự quản lý và tổ chức chặt chẽ với những hình thức và biện pháp khác nhau. Ở nhiều mức độ, sự quản lý đó thể hiện được uy quyền của những người thống trị trong xã hội.
Để quản lý cho dễ, người Ai Cập cổ đại chia vương quốc thành nhiều vùng, được gọi là nome. Các nome có thể được bắt đầu từ thời kỳ Tiền triều đại (trước năm 3100 trước Công nguyên), khi đó các vùng được tự trị như tiểu đô thị. Hệ thống cai trị này phổ biến dưới nhiều thời pharaông Ai Cập, vương quốc đã được chia thành 42 nome. Thời kỳ suy yếu, Ai Cập được chia thành 22 nome. Trong mỗi vùng việc cai trị được trao cho một người đứng đầu với đầy đủ quyền lực. Địa vị thủ lĩnh của một vùng được phép truyền từ đời này sang đời khác hoặc do sự bổ nhiệm của pharaông.
Sự cai trị của Ai Cập áp đặt khác nhau về số thuế phải đóng của các cư dân. Người ta chưa xác định được từ khi nào người dân Ai Cập phải đóng thuế bằng các hình thức hoặc là sản phẩm, hoặc là lao động. Vị quan điều hành hệ thống thuế thông qua một bộ của bang, vùng. Các loại thuế phải nộp dựa trên kết quả các ngành nghề thủ công và lợi tức. Các chủ đất phải nộp thuế bằng các sản phẩm thu hoạch trên đất đai của họ. Người dân lao động phải nộp thuế cho mảnh đất mà họ kiếm sống. Mỗi thành viên trong các gia đình buộc phải trả thuế bằng sức lao động ở các công trường bằng số lượng vài tuần trên một năm, ví dụ như đào kênh hay làm việc ở các khu khai khoáng. Tuy nhiên, những người giàu có được phép thuê những người đàn ông nghèo khổ đi đóng thuế lao động cho mình.
Chính quyền của người Inca cũng dựa trên việc sử dụng lao động nặng nhọc của thường dân. Những người đàn ông tráng kiện phải phục vụ trong quân đội Inca hoặc lao động khổ sai trên các công trình công cộng như kênh thuỷ lợi, đường sá và toà nhà công cộng. Để kiểm soát chặt chẽ người dân và công việc họ làm, chính quyền Inca thường xuyên tiến hành điều tra và thống kê dân số. Quipucamayoc là các chứcchuyên chịu trách nhiệm về công việc này. Họ theo dõi chặt chẽ những người có và không có khả năng làm việc. Tuy người Inca không có chữ viết những họ phát minh ra hệ thống ghi chép vô cùng độc đáo đó là quipu, như một loại hồ sơ chứa thông tin về nhiều lĩnh vực. Quipu gồm những đoạn dây nhiều màu, trên đó buộc các nút tuỳ theo từng hệ thống nhất định, tượng trưng cho các số lượng nhất định và bội số của chúng. Mỗi màu mang một ý nghĩa riêng, tuỳ theo loại hồ sơ được giữ. Các màu có thể đại diện cho đất, con người và động vật v.v… Quipu còn được dùng để đánh dấu các sự kiện lịch sử quan trọng.
Trong quản lý chính quyền, người Inca và Ai Cập đều quản thúc chặt chẽ lao động của thường dân, sử dụng họ trong các công việc chung của vương quốc. Khác ở chỗ, người Ai Cập dùng thuế đánh vào lao động và cuộc sống của người dân còn người Inca sử dụng Quipu để giám sát.

3. Trong tôn giáo, tín ngưỡng
Cả người Inca và Ai Cập đều theo tín ngưỡng thờ thần chứ không theo một tôn giáo nào. Họ là những cư dân nông nghiệp nên việc thờ cúng các vị thần núi, thần sông hay các vị thần bầu trời… thể hiện một cách trực tiếp mong muốn của họ cho một cuộc sống sung túc, no đủ, thuận hoà giữa thiên nhiên và con người. Với người Ai Cập, đời sống tôn giáo không chi phối tới họ nhiều như người Inca. Người Ai Cập tôn thờ các vị thần sáng tạo và quan niệm sâu sắc về thế giới bên kia.
Người Ai Cập cổ đại theo tín ngưỡng thờ thần, họ thờ hàng trăm vị thần khác nhau, đôi khi khó nhận ra ai là ai. Nhiều vị thần được tái hiện dưới hình dạng các con vật. Chẳng hạn vị thần Thoth được biểu thì bằng khỉ đầu chó, vị thần trí tuệ ở một ngôi đền nọ nhưng lại là thần Mặt Trăng ở một ngôi đền khác và còn được gọi là Khonsu. Trong 42 vùng ở Ai Cập thì vùng nào cũng có một vị thần riêng, ngoài ra còn có nhiều vị thần khác. Thần Mặt Trời được coi là vị thần có ưu thế nhất trong tôn giáo Ai Cập. Tuy nhiên vị thần này cũng mang nhiều hình dáng khác nhau. Vào lúc rạng sáng thì đó là thần Khepri, một con bọ hung, sau đó thì trở thành Re-Harakhty, một con chim ưng to lớn liệng trên bầu trời. Đây được coi là vị thần chịu trách nhiệm đối với muôn vật và con người, sự màu mỡ của đất đai và cả hành trình của nhà vua đến âm phủ. Thần Mặt Trời được coi là vua của các vị thần và là đấng bảo hộ pharaông khi ngài ra trận.
Theo lý thuyết thì pharaông được coi là vị quản tế cao nhất trong mọi đền thờ của Ai Cập nhưng trên thực tế thì công việc của nhà vua do vị chánh quản tế thực hiện. Ông ta cai quản những tài sản kếch sù trong các khu báu của đền cũng như những vùng đất rộng lớn thuộc điền sản của đền. Chức quản tế này có thể nằm trong gia đình, truyền từ đời này qua đời khác cho đến khi bị pharaông truất quyền của họ bằng cách chỉ định người khác.
Trong đời sống tinh thần của người Ai Cập cũng diễn ra nhiều nghi lễ linh thiêng. Chỉ có một vài vị thầy tế được tuyển chọn mới được tham gia những buổi lễ diễn ra tại điện thờ của đền. Họ vừa đi theo sau vị thầy tế cao cấp, vừa châm đèn đốt hương, vẩy nước thuần khiết từ hồ thiêng trong đền. Vị thầy tế cao cấp tiến gần điện thờ rồi khấn: “Con là một kẻ trong sạch”, rồi ông mở cửa điện thờ để lộ ra bức tượng thần bằng vàng. Tượng này phải được trang điểm trước khi làm lễ dâng thức ăn. Sau khi làm lễ các thầy tế rời khỏi đền thờ mà không để lại dấu tích gì của họ.
Đời sống của người Inca mang nặng bản sắc tôn giáo, cuộc sống hàng ngày của họ bị chi phối bởi sức mạnh siêu nhiên. Người Inca cũng thờ các vị Thần Mặt trời, Thần sấm, Thần trăng, Thần đất và Thần biển. Trong quan niệm, họ vẫn cho rằng các vị thần này là đấng sáng tạo (Viracocha) ra con người, gia súc, đất canh tác… là tất cả những gì tạo nên cuộc sống của họ. Các vị thần cũng thể hiện cho mong muốn về một cuộc sống tốt đẹp của người Inca. Bên cạnh đó, họ còn thờ huaca là những đồ vật, người, hiện tượng tự nhiên hiện hữu quanh con người; thờ conopa, là các tượng thần nhỏ thờ cúng trong gia đình, để đảm bảo sự sung túc cho con người, gia súc và đất trồng.
Lễ hội mùa màng của người Inca cũng được tổ chức rất công phu như Inti Raymi – Lễ hội của Mặt trời, với nhiều vật hiến tế là những gì do người Inca làm ra hoặc gia súc. Mục đích của những nghi lễ này là đảm bảo mùa màng được tươi tốt, sức khoẻ cho con người và sự phồn vinh của đế quốc Inca.

4. Về chữ viết
Điểm khác biệt lớn nhất trong văn hoá của người Inca và Ai Cập chính là chữ viết. Mặc dù hình thành sớm hơn rất nhiều so với văn minh Inca, người Ai Cập đã tạo dựng được hệ thống chữ viết khá phức tạp. Chính vì người Inca không có chữ viết nên họ không thể ghi lại lịch sử của chính dân tộc mình. Những gì tới ngày nay thế giới biết về Inca đều qua ghi chép của người Tây Ban Nha. Vì thế, những điều chúng ta biết về Inca còn quá ít so với những gì diễn ra trong lịch sử cũng họ cũng như những giá trị văn hoá mà họ tạo dựng nên.
Thời Ai Cập cổ đại, chữ tượng hình được sử dụng trong các tượng đài, đền thờ, miếu, lăng mộ của nhà vua và trong mọi giấy tờ tôn giáo. Chữ tượng hình được viết bởi các thầy ký lục, đây là một dạng chữ bằng hình vẽ, rất rắc rối, sử dụng khoảng 700 ký hiệu khác nhau. Phải hết sức cẩn trọng mới làm nổi công việc này và đó cũng là lý do các thầy ký lục giữ được vị trí đặc biệt trong xã hội Ai Cập. Chữ tượng hình có thể viết từ trái sang phải, từ phải sang trái, từ trên xuống dưới. Đối với các khế ước buôn bán,thư từ, chuyện kể các thầy ký sử dụng biến thể rút gon của chữ tượng hình và luôn viết từ phải sang trái. Sau này còn một dạng chữ gọi là demotic là văn tự thông tục, được dùng trong các văn bản pháp luật. Đến cuối thời kỳ văn minh Ai Cập, các thầy ký lục còn biết viết chữ Hy Lạp, ngôn ngữ của những vị có chức tước lớn khi đó.
Chữ tượng hình có thể coi là một phát minh lớn của người Ai Cập. Điều đó cũng chứng tỏ họ luôn có ý thức gìn giữ lịch sử và các giá trị văn hoá của mình. Đây cũng là một thành tựu mà không phải dân tộc nào cũng có thể sáng tạo được.

5. Trong y học
Y học cũng là một thành công rất lớn trong đời sống của người Inca và Ai Cập. Y học là điều liên quan trực tiếp tới việc bảo vệ sức khoẻ của người dân thuộc hai nền văn minh này. Với Ai Cập, ma thuật với y học là sự đan xen trong kỹ thuật chữa bệnh. Y học của người Inca được biết đến ít hơn. Nhưng có một điểm chung là cả người Inca và Ai Cập đều biết sử dụng các loại thực vật xung quanh để chữa bệnh. Giải phẫu ngay từ những thời kỳ này đã được quan tâm.
Các vị thần trong các đền thờ đóng vai trò không lớn trong đời sống của người Ai Cập, bởi vậy nhiều người đã sử dụng ma thuật để giải quyết các vấn đề như những nguy hiểm khi sinh đẻ, tình trạng chết yểu của trẻ con, các dịch sốt,v.v… Người Ai Cập cũng có kỹ năng khá cao về y học. Nay vẫn có những quyển sách của thầy thuốc được viết trên giấy cỏ, trong đó mô tả cách  chữa bệnh và thể hiện sự hiểu biết tỷ mỷ về cơ thể học. Người ta đã viết về tầm quan trọng của tim và cách bắt mạch ở gáy và tay. Đã có những thứ thuốc để chữa các bệnh đau mắt, u nhọt và một số bệnh tật khác. Người Ai Cập tin rằng, nhiều căn bệnh xuất phát từ những sinh vật, tựa như sâu bọ xâm nhập vào cơ thể. Các thầy thuốc và thầy ma thuật cùng làm việc với nhau, họ sử dụng cả thuốc men và phù chú để chữa bệnh khi bị rắn cắn hay bọ cạp đốt. Họ cũng dùng ma thuật để phòng ngừa những tổn thương mà cá sấu và ma quỷ có thể gây ra. Khi chết bùa được mai táng cùng với thi hài vì người ta cho rằng bùa hộ mệnh có thể phóng ngừa điều nguy hại.
Người Inca có nhiều kiến thức trong y học, họ có thể mổ thành công trên đầu. Lá cây coca được dùng để giảm đói và đau, vẫn còn được phổ biến cho tới ngày nay ở vùng núi Andes. Các nghiên cứu mới đây của trường Erasmus Universiteit Rotterdam cho thấy rằng trái với quan niệm phổ biến cho rằng người Inca nghiện coca. Một phương thức trị liệu khác của họ là dùng vỏ cây tiêu Peru đã được nấu còn ấm để đắp lên vết thương.
Như vậy, hai nền văn minh Inca và Ai Cập hình thành trong hoàn cảnh lịch sử khác nhau, thậm chí cách nhau rất xa về thời gian và ở hai khu vực khác nhau. Họ chịu những sự tác động khác nhau của môi trường sống xung quanh. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm khác biệt, giữa họ tồn tại những điểm tương đồng về văn hoá. Điều này được lý giải bởi người Inca và Ai Cập cùng là những cư dân nông nghiệp, vì thế đời sống của họ bị chi phối chủ yếu bởi các hoạt động này. Họ đã sáng tạo nên những giá trị văn hoá vô cùng to lớn với nền văn minh phát triển rực rỡ. Hai nét thành tựu nổi bật của người Ai Cập được cả thế giới biết đến là kim tự tháp và kỹ thuật ướp xác. Kiến trúc xây dựng của người Inca cũng có những điểm tương đồng với kỹ thuật của Ai Cập. Bên cạnh đó, ướp xác cũng nằm trong tín ngưỡng của người Inca.
Các công trình kiến trúc là những di sản lớn nhất mà hai nền văn minh Inca và Ai Cập để lại cho nhân loại. Ngoài ra, kỹ thuật “ướp xác” của họ cũng cho thấy cả đời sống tâm linh vô cùng phong phú, góp phần giúp thế giới khám phá những điều bí ẩn về hai nền văn minh này.
Kim tự tháp là thành tựu vĩ đại còn tồn tại cho tới ngày nay của người Ai Cập. Những điều bí ẩn về kim tự tháp là điều người ta luôn muốn khám phá nhưng đến nay vẫn chưa tìm hết được lời giải đáp. Một câu hỏi luôn được đặt ra là người Ai Cập cổ đã xây nên những tượng đài đồ sộ bằng đá này như thế nào và để làm gì? Thời kỳ gọi là Ai Cập cổ kéo dài 300 năm. Những kim tự tháp ở Giza và tượng Sphinxơ được xây dựng sớm nhất, ở thời kỳ cổ vương quốc (khoảng từ 2613 đến 2160 TCN) gần thành phố Cairo hiện đại. Nhưng ở Ai Cập còn trên 80 kim tự tháp khác và 100 cái nữa ở miền nam Sudan. Các chuyên gia cho rằng mỗi kim tự tháp là một ngôi mộ, các pharaông xây nên để làm nơi an nghỉ cuối cùng cho mình. Từ kim tự tháp (pyramit) có nghĩa là để vị pharaông đã chết trở nên bất tử. Nhưng người ta vẫn chưa hiểu được tại sao người Ai Cập lại chọn hình chóp. Có thể là xuất phát từ các mộ táng thưở xưa hoặc là biểu tượng của những tia nắng mặt trời của cầu thang bước lên thiên đường. Nhiều thế kỷ sau, người Trung Mỹ cũng xây các kim tự tháp, chủ yếu làm các đền thờ. Hàng trăm kim tự tháp này vẫn còn ẩn dấu  trong rừng sâu.
Kim tự tháp Ai Cập được xây nên bởi hàng trăm nghìn viên đá. Đại kim tự tháp được làm từ 2.300.000 khối đá lớn, mỗi khối cân nặng trung bình 2,5 tấn. Các phiến đá lớn nhất lát trên mái Phòng của nhà vua nặng 50 tấn. Công việc khai thác những khối đá này và chuyên chở chúng tới nơi xây dựng Kim tự tháp đã là một điều kỳ diệu. Phần lõi của Kim tự tháp được làm từ đá vôi ở địa phương, loại đá khá mềm. Nhưng loại đá vôi chất lượng cao dùng để ốp bên ngoài được chở đến từ Tura, qua sông Nil. Một số phòng và lối đi bên trong làm bằng đá hoa cương, loại đá cứng hơn lấy từ Aswan, cách 800km từ thượng nguồn. Quanh năm, những toán công nhân xây kim tự tháp làm việc ở công trường khai thác đá, cắt những khối đá thô đưa lên mặt đất. Khi con sông bị ngập nước, tiến tới gần công trường, người ta chất khối đá lên thuyền và chở về nơi xây kim tự tháp. Họ viết tên của mìnKim tự tháp lên đá, vài khối đá trong Kim tự tháp Meidum có khắc các dòng chữ  “Đội Kiên trì”, “Đội Dũng mãnh”, hoặc “Đội thuyền”.
Với người Inca, những công trình kiến trúc còn lại cho tới nay là ở 2 thành phố Machu PicchuCuzco. Machu Picchu được nhà khảo cổ Hiram Bingham phát hiện ra năm 1911. Thành phố này toạ lạc trên triền núi phía đông dãy Andes, ở độ cao 2600m so với mực nước biển, cách Cuzco 50km về phía tây bắc. Có nhiều ý kiến về nguồn gốc và bộ tộc xây dựng nên Machu Picchu, thành phố này đến nay vẫn còn là bí ẩn. Cái tên Machu Picchu được đặt ra trong thời gian gần đây, ám chỉ núi non bảo vệ thành phố này. Machu Picchu  gồm quảng trường thiêng với ba toà nhà tôn giáo là ba đền thờ lớn, ở điểm cao nhất của thành phố có đặt đồng hồ Mặt trời.  Machu Picchu được bao quang bởi một hào sâu, hai thành luỹ cao 5m và dày 1m, xây bằng những khối đá xếp khít nhau mà không dùng vữa. Dù trong điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, hành phố này tồn tại cùng với thời gian, có giả thuyết đặt ra đây là một nơi linh thiêng của người Inca.
                 Theo sử sách Tây Ban Nha ghi lại, thành phố Cuzco của nguời Inca được thành lập bởi Manco Capac huyền thoại, là trung tâm hành chính, chính trị, tôn giáo, nghệ thuật của đế chế Inca. Cuzco được mô tả như “thành phố giàu nhất ở Indies, vì nó đầy rẫy châu báu cho sự vĩ đại của các vị thần”, được xây dựng vào thế kỷ 16, bởi 50.000 ngàn lao động khổ sai trong hơn 20 năm. Ở Cuzco. Tại đây có những bức tường thành lớn được xây dựng không cần vữa, bề bặt đá được đẽo gọt, ăn khớp với nhau một cách hoàn hảo. Trung tâm thành phố vây chung quanh huacaypat, từ đấy toả ra bốn con đường hoàng gia; xung quanh quảng trường là các cung điện của vua.
Công trình quan trọng nhất ở CuzcoCoricancha tức đênf thờ mặt trời, bên cạnh là Đền thờ Mặt trăng. Ngày nay một số bức tường ở ngoại ô Cuzco còn được bảo tồn. Nhiều công trình kiến trúc còn tồn tại ở đây là do người Tây Ban Nha xây dựng dựa trên nền của những công trình của người Inca.
Điểm tương đồng trong kỹ thuật xây dựng của người Inca và Ai Cập chính là việc sắp xếp các khối đá chồng khít lên nhau mà không dùng vôi vữa. Hơn thế nữa, những công trình ấy dường như có giá trị trường tồn với thời gian và cũng là điều bí hiểm mà ngày nay chúng ta vẫn chưa khám phá hết được. Có thể nhận thấy rằng các công trình kiến trúc mà người Inca và Ai Cập xây dựng đều mang mục đích tôn giáo hoặc thể hiện cho mong muốn của họ ở kiếp sau cũng như khẳng định địa vị của những thủ lĩnh trong xã hội của họ.
Người Ai Cập cổ đại rất sợ nghĩ tới một ngày nào đó thế giới của họ sẽ không còn tồn tại nữa. Bắt nguồn từ niềm tin vào sức mạnh của ma thuật, họ đã bày đặt ra những nghi thức tang lễ mà theo họ, sẽ đảm bảo cho sự trường tồn của mỗi con người. Điều này liên quan mật thiết với việc bảo quản thi thể của người vừa chết. Những người thợ ướp xác mang người chết tới “Ngôi nhà đẹp”, nơi họ làm việc. Họ dùng một con dao đá chích một lỗ bên trái tử thi rồi moi gan và phổi ra. Chúng được xấy khô rồi cất giữ vào trong những cái bình đặc biệt, gọi là bình chứa nội tạng. Não cũng được lấy ra, nhưng tim thì vẫn để lại vì còn có thể phải đem ra cân sau khi xuống âm phủ. Sau đó, tử thi được phủ một lớp tinh thể natron để chống thối rữa. Ngoài ra còn phải phủ thêm một lớp chất liệu khô như mùn cưa hoặc lá khô. Cuối cùng, dùng những dải băng bằng vải lanh để quấn lại.
Giai đoạn cuối cùng của quá trình ướp xác là đặt thi thể vào quan tài. Với những người giàu có thì quan tài là một cái hòm cầu kỳ gồm nhiều lớp khác nhau được trang trí công phu. Thi thể sẽ được bảo quản tốt và chừng nào người Ai Cập còn  coi trọng thì nó vẫn tồn tại mãi. Họ cho rằng sau khi thể xác của một người chết đi thì vẫn còn một số yếu tố nương tựa vào đó. Yếu tố quan trọng nhất là “Ka” – “linh thể” của con người mà người ta coi như bản sao của thân thể và nó sẽ đưa cái xác trở lại cuộc sống tiếp theo. Một yếu tố linh thiêng khác là “Ba” – “linh hồn” của con người, nó mang hình tượng cái đầu của người quá cố và thân thể của chim ưng. Người Ai Cập cũng tin rằng, cái bóng của con người cũng tồn tại mãi mãi như cái tên của người đó. Quá trình ướp xác là nhằm tạo nên một chủ thể vĩnh hằng từ một cái xác và tạo cho Ka một nơi nương náu ở kiếp sau.
Người Inca luôn tin vào kiếp sau và tôn thờ tổ tiên của mình. Các cơ thể đã chết và các ngôi mộ được coi là các huaca. Linh thiêng nhất trong các huacamallqui. Mallqui là xác ướp của người sáng lập ra một thị tộc. Bằng cách bảo quản các mallqui này, mỗi thị tộc khẳng định đặc điểm của mình, đảm bảo sự hợp nhất nhóm. Những người thống trị khi đã chết được đối xử như khi còn sống. Còn với những người dân thường, nghi lễ được làm đơn giản hơn. Người làm những hầm mộ cho tổ tiên gọi là chullpas. Họ có thể ra vào ngôi mộ này, mang đồ dùng và thức ăn và cầu khấn những người chết đã được ướp xác.
Như vậy, trong quan niệm của người Inca và Ai Cập, người sống cũng như một thực thể còn tồn tại nhưng là ở thế giới bên kia. Họ tin rằng dù khi chết, người ta vẫn có một cuộc sống khác và việc ướp xác thể hiện cho mong muốn về một cuộc sống tốt đẹp ở kiếp sau. Việc ướp xác cũng thể hiện, người Inca và Ai Cập luôn coi trọng người đã khuất, người đó vẫn luôn tồn tại trong trí nhớ của họ và được tôn trọng. Việc mai táng thi thể trong các hầm mộ và những của cải chôn cất theo người chết thể hiện địa vị của người nó khi sống. Có thể nói đời sống tâm linh của người Inca và Ai Cập đóng vai trò rất quan trọng và là một phần trong cuộc sống của họ.        
            Văn minh Inca và Ai Cập là hai nền văn minh phát triển rực rỡ trong lịch sử nhân loại. Dù tồn tại ở những bối cảnh lịch sử và điều kiện tự nhiên khác nhau nhưng văn hoá của họ tồn tại những điểm tương đồng. Những giá trị văn hoá mà họ tạo dựng nên có giá trị bền vững và được cả thế giới công nhận như những cái nôi văn minh của loài người.
Vương quốc của người Inca và Ai Cập được ổn định bằng một hệ thống quản lý chặt chẽ và khả năng sử dụng tài nguyên mang lại nhiều lợi ích. Không những thế, họ biết cách sử dụng những dân tộc bị chinh phục và những người dân của vương quốc mình. Họ là nguồn cung cực lớn về năng lực, kinh nghiệm, công nghệ và sức lao động. Chính những người nông dân, người lính, kiến trúc sư và thợ đẽo đá là những người xây dựng đường sá, đền thờ, kênh đào và ruộng bậc thang làm nên những thành tựu vĩ đại để lại cho đời sau.
Các công trình kiến trúc là biểu trưng của những trung tâm nghi lễ, chính trị của người Inca và Ai Cập. Kim tự tháp Ai Cập và các thành phố của người Inca là sự kết hợp giữa kiến trúc và địa hình xung quanh. Họ đã tạo nên những công trình mà ngày nay con người dày công nghiên cứu cũng chưa khám phá hết kỹ thuậ và họ đã sử dụng để xây dựng nên.
Người Inca và Ai Cập còn chỉ cho thế giới thấy quan niệm sâu sắc về cuộc sống tâm linh với quan niệm, những điều tốt đẹp luôn là khát khao, mơ ước của con người không chỉ khi sống mà cả khi mất đi. Trong xã hội Inca và Ai Cập địa vị của những người thống trị luôn được khẳng định và được nhân dân tôn thờ ngay cả khi họ đã khuất.
Văn minh Inca và Ai Cập tượng trưng cho sức sáng tạo và khả năng của con người có thể cải tạo thiên nhiên và chinh phục những thử thách trong cuộc sống để đạt được những giá trị tốt đẹp.