Chửi người ta là cốt để người ta phải tức giận và
nổi xung lên. Kiểu chửi mắng gây ồn ào, lấy thịt đè người vừa thiếu văn hóa lại
vừa không tạo được “hiệu quả” như mong muốn của người chửi.
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam đã từng có
một cuộc thi chửi để tìm hiệu quả cao nhất. Đó là chuyện của Ba Giai và Tú
Xuất. Giai thoại rằng: “Ba Giai và Tú Xuất đều cho mình là tay cao thủ trong
chuyện chửi xỏ xiên thiên hạ, không ai chịu kém ai. Thế nên để phân tài cao
thấp, Ba Giai và Tú Xuất thi chửi thiên hạ xem ai là người bị thiên hạ chửi
nhiều hơn. Tú Xuất là tay đanh đá nên đã từng chửi nhau 7 ngày với một bà hàng
nước và giành chiến thắng nên rất tự tin. Tú Xuất chửi một hồi nhưng chỉ được chục
người đáp lại vì không ai dại “dây với hủi”. Nhưng Ba Giai, với sự thâm trầm
của mình, đi ra bến đò nhằm lúc đò đông mà rủa móc là đò sắp đắm. Không cần
biết trên bờ là ai, cả trăm cái miệng đều chửi Ba Giai. Tú Xuất phục Ba Giai
tài chửi hơn mình".
Chủ quán chửi có duyên
Chửi thề có “thương hiệu” là chị Ngọc Hiệp chủ
cái quán cùng tên, chuyên bán hải sản, ở xã Bình Thắng, huyện Bình Đại, tỉnh
Bến Tre. Trước khi mở miệng nói một câu, chị thường đệm hai chữ “Đ. mẹ!”. Song
giọng chửi của chị thật trong trẻo, hồn nhiên, luyến láy chứ không hề có ác ý.
Nhiều khách quen còn cho đó là lời... mắng yêu. Chuyện chị Hiệp chửi thề ở Bến Tre
đã trở thành... giai thoại. Một quan chức huyện Bình Đại gọi điện đến quán chị
đặt trước mấy món ngon. Bắt điện thoại, nhận ra giọng “quan trên” chị nhỏ nhẹ
thỏ thẻ: Dạ quán Ngọc Hiệp đây! Anh muốn dặn trước món gì?- Phải quán Ngọc Hiệp
hôn?- Dạ phải!- Không tôi muốn gặp bà Hiệp chửi thề kia, giọng này lạ hoắc.-
Đ.M nó đây cha nội! Đ.M cha muốn ăn gì đây tui mần cho?- Ừ phải rồi! Đúng bà
Hiệp chửi thề rồi! (vị quan chức này vỗ đùi rõ to và cười ha hả).
Một anh bạn cũng ở Bến Tre, ghe chị chửi hoài
nên... ghiền. Mỗi lần ghé quán chị ăn là anh kiếm chuyện chọc cho chị chửi càng
nhiều thì anh ăn càng ngon miệng. Ví như: Bà có bắp trâu nhúng mẻ hôn? - Đ.M
cha ngu còn hơn trâu! Cua gạch óc nóc, vàng lườm không chịu ăn lại đòi trâu.
Nếu có dịp về huyện Bình Đại, bạn thử hỏi bà Hiệp
chửi thề với cánh xe ôm, nhân viên cây xăng, người bán vé số... ai cũng có thể
chỉ đường bạn đến ngay quán Ngọc Hiệp để được... nghe chửi.
Tấn Tới
Việc chửi thi mồm to chỉ là chuyện "võ
biền". Nói móc mới là nghệ thuật cao nhất của chửi, khiến người nghe phải
phát điên và có khi … qua đời. Trong Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung,
Khổng Minh là bậc thầy chửi móc nên dạy quân sĩ móc Chu Du là: “ Chu Du mẹo
giỏi yên thiên hạ, đã mất phu nhân lại thiệt quân”, Du nghe xong khí uất đầy
ruột, thổ huyết sau đó bệnh nặng mà chết. Khi Khổng Minh sang khẩu chiến với
quần nho của Giang Đông, các bên cũng nói móc nhau để tạo thế trên bàn ngoại
giao. Mưu sĩ Giang Đông nói: “Lưu sứ quân từ khi có tiên sinh đánh đâu thua
đấy”, Khổng Minh móc lại: “Cái chí của đại bàng thì bọn sẻ biết thế nào được”.
Nhưng Khổng Minh cũng chưa phải là người nói móc đầu tiên ghi trong chuyện Tàu.
Thời Xuân Thu, Án Anh, thừa tướng nước Tề khi sang Sở bị tướng Sở bắt chui lỗ
chó vào thành thì chửi móc luôn: “Đi sứ nước người thì vào cửa người, đi sứ
nước chó thì vào cửa chó”. Người Sở căm tức nhưng không làm gì được.
Chẳng cứ quan văn mà quan võ cũng nói móc nhau
trước trận để khiến đối phương tức điên lên. Trong trận Trương Phi đại chiến Mã
Siêu (Tam Quốc diễn nghĩa), Phi múa mâu tự giới thiệu theo đúng bài: “Ta là Trương
Dực Đức người nước Yên”. Mã Siêu nói móc luôn: “Nhà tao đời đời làm khanh
tướng, đâu biết đến loại thất phu quê kệch như ngươi”. Trương Phi vốn xuất thân
từ nhà bán thịt lợn, bị nói móc dòng dõi gia đình thấp hèn nên nổi điên ngay.
Đó là trong tiểu thuyết, còn đời sống hằng ngày,
chuyện nói móc nhan nhản. Nó không thô như chửi to tiếng nhưng lại làm người
nghe phải đau vì mỗi câu, mỗi từ như cứa vào nỗi đau của người khác. Hai nhà
hàng xóm cãi nhau, một bà chửi sang luôn nhà bên kia: “Tao không chửi mày mà
cho con tao sang chửi mày”. Bà kia vốn mặc cảm muộn chồng nên bị đối thủ chửi
như vậy thì cứng họng nuốt nước mắt vào lòng. Không thể đỡ nổi với kiểu chửi
móc thâm như thế. Nhiều khi để tạo sự uy hiếp cho đối thủ, cao thủ chửi móc
không ngại lôi nỗi đau từ đời nảo đời nào của đối thủ ra bêu riếu. Vì những
điều bị biêu riếu là sự thật nên đối thủ chỉ còn nước chào thua.
Trên mạng internet hiện giờ, dù là thế giới ảo
nhưng cũng có vô số cao thủ chửi móc tại nhiều diễn đàn. Gặp một vấn đề tranh
luận, thấy người kia sai một chút về kiến thức thì sẽ bị móc ngay: “Trình độ
như chú không đáng để bàn chuyện với anh” hoặc “Chú nên về nhà đọc sách 10 năm
rồi quay lại tranh luận với anh tiếp”. Không có một từ văng tục trong câu chửi
nhưng người nghe khí uất đầy ruột chỉ muốn cầm bàn phím mà đập vào màn hình.
Nếu trả đũa chửi lại trên diễn đàn thì sẽ bị admin khóa nick ngay. Trò chơi kết
thúc, cao thủ chửi móc sẽ ngồi một góc cười rằng: “Trình độ tranh luận như thế
thì non lắm”.
Chửi như hát thì sao mà
cấm!
Hồi tháng 12 năm ngoái, Telegraph cho biết một
nhóm nghị sĩ Nga đã đệ trình một dự luật, quy định người nào chửi thề nơi công
cộng sẽ bị phạt từ 15 đến 45 USD. Quy định trên vốn sẵn có ở Belgorod của Nga. Được biết cảnh sát ở nơi
này sẽ phạt ngay lập tức những người chửi thề tại khu vực công cộng từ 15 đến
45 USD. Đặc biệt những ai văng tục trước mặt trẻ em thì sẽ bị áp dụng mức phạt
cao nhất. Liệu dự luật trên có được thông qua để trở thành luật của toàn nước
Nga hay không thì còn phải chờ. Riêng ở ta, cho tới nay vẫn chưa có dự luật nào
tương tự như thế. Phải chăng, vì trong tiếng chửi của người Việt còn chất chứa
bao yêu thương và sự âu yếm thân tình. Các chị, các mệ ở Huế mỗi khi ném câu
“mả cha mi” hay “mi là đồ con tinh”… vào mặt bọn trẻ, thì hầu hết đó không phải
là ý chửi mà phải gọi là “mắng yêu”. Thậm chí khi nghe người lớn chửi mình như thế,
đám trẻ con cũng tít mắt mà cười, nũng nịu chứ đâu có giận dỗi chi. Thế nên nếu
đem hình phạt như ở vùng Belgorod
nước Nga đề cập ở trên áp dụng cho người dân Huế thì coi như thua.
Chưa hết, người dân cố đô còn truyền miệng nhau
câu chửi “Đồ mi là đồ mi phá, bố mi về là bố mi la” nghe cứ y như hát nhạc...
Trong trường hợp này, chửi mà nghe hết sức dễ thương, người bị chửi thấy khoái
thì luật nào cấm cho được.
Có điều lạ là nhiều câu chửi của người Huế thường
hay bắt đầu bằng chữ “đồ”. Cảm giác như người ta dùng chữ “đồ” để làm giảm nhẹ
cái từ chính thể hiện ý chửi. “Mi là đồ heo”, nghĩa là “đồ heo” chứ không hoàn
toàn là “heo”. Hoặc khi muốn chửi mà chưa nghĩ ra từ để chửi cho sướng miệng, người
ta chọn cách lấp lửng: ‘cái đồ, cái đồ…’. Còn cái đồ gì gì thì tự hiểu, nói
chung là "tao đang muốn chửi mi".
Đây cũng là một đặc điểm chung của nhiều nơi
thuộc miền Trung chứ không riêng gì Huế.
Ngôn ngữ chửi bới trong
tiểu thuyết kim dung
Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung xây dựng thế giới
của bọn hào sĩ giang hồ. Các nhân vật này sống trên đường đao mũi kiếm, ít được
học hành, lại ỷ mình có chút võ công cho nên họ ăn nói rất lỗ mãng. Họ chửi bới
kẻ thù, chửi bới người khác rất tự nhiên. Ngôn ngữ chửi bới đối với họ đã trở
thành quán tính đến nỗi ta có thể nói không nghe tiếng chửi bới thì họ không còn
là hào sĩ giang hồ.
Thông thường, bọn hào sĩ giang hồ chửi người khác
bằng những cụm từ quân rùa đen, phường chó đẻ, bọn mặt dơi tai chuột, bọn trôi
sông giạt chợ, quân chó lộn giống, bọn mèo què…Đàn ông thì tự xưng là “lão gia,
lão tử”. Phụ nữ thì tự xưng là “lão nương” mặc dù họ chỉ mới vài ba chục tuổi.
Nàng Khang Mẫn trong Thiên Long bát bộ chửi hương hồn chồng mình là Mã Đại
Nguyên: “Mã Đại Nguyên, ngươi đừng làm ma nhát quỷ. Lão nương không sợ ngươi
đâu”.
Giận lên, bọn hào sĩ giang hồ chửi tưới hạt sen,
không tha một ai hết. Các nhà sư bị họ chửi là bọn trọc đầu, thầy chùa thối
tha, thầy chùa chết đâm. Các đạo sĩ tu theo Đạo giáo của các phái Võ Đang hay
Toàn Chân bị chửi là bọn lỗ mũi trâu. Minh giáo (Manicheisme - Ma Ni giáo, một
tôn giáo đứng đắn bắt nguồn từ Bái Hỏa giáo) bị họ tước bỏ chữ Ni, chỉ còn Ma
giáo (đạo thờ ma). Diệt Tuyệt sư thái, chưởng môn phái Nga Mi (Ỷ thiên đồ long
ký) mở miệng ra là chửi là dâm tặc Ma giáo.
Tuy nhiên, kẻ chửi bới sáng tạo nhất, ngôn ngữ
mới lạ nhất là Vi Tiểu Bảo, công tước của triều Thanh. Hắn xuất thân từ kỹ viện
thành Dương Châu, lại được vào tu nghiệp trong hoàng cung Thanh triều. Mà hoàng
cung và kỹ viện là hai nơi trá ngụy nhất trên đời nên Vi Tiểu Bảo được coi là
bậc thầy của nghề chửi bới.
Hơn tất cả mọi người, hắn dám chửi thái hậu là mụ
điếm già; chửi công chúa Kiến Ninh là con đượi non; chửi thượng thiện thái giám
Hải lão công là Hải lão con rùa. Hắn luôn luôn đem tất cả những người phụ nữ
khác, từ công chúa, quận chúa đến thứ dân so sánh với các kỹ nữ trong Lệ Xuân
Viện thành Dương Châu. Sang Vân Nam,
hắn chửi Bình Tây vương Ngô Tam Quế là đại hán gian; chửi Ngô Ứng Hùng - con
Ngô Tam Quế là tiểu hán gian. Hắn chửi hay đến nỗi hai vị sư phụ của hắn là
Khang Hy, hoàng đế Thanh triều và Trần Cận Nam, tổng đà chúa của Thiên Địa hội chống
Thanh triều đều học theo hắn mà chửi. Họ chửi thái hậu giả là mụ điếm già. Và
do thù mụ điếm già mà Khang Hy đem con đượi non Kiến Ninh công chúa (trên danh
nghĩa là em Khang Hy) gả cho tiểu hán gian Ngô Ứng Hùng.
Ngay trên bàn đàm phán, đang làm đại sứ đặc mệnh
toàn quyền của Thanh triều, hắn cũng chửi Phí Diêu Đa La Quả La Văn (Feodore Golovin),
đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Nga La Tư (La Sát). Gặp Kim Dung viết: “Con mẹ
quân chó đẻ! Ta nguyền rủa tổ tôn mười tám đời bọn quỷ La Sát các ngươi”. Thốt
xong câu đó, hắn chửi Phí Diêu Đa La ào ạt. Kim Dung viết: “Rồi tiếp đến những
lời thô tục tuôn ra như nước chảy, thao thao bất tuyệt. Hắn chửi cao tổ mẫu,
tằng tổ mẫu, rồi đến tổ mẫu, mẫu thân, tỷ muội, bà ngoại, a di, cô mẫu nhà Phí
Diêu Đa La. Hắn chửi tưới hột sen, chửi vung xích chó. Bao nhiêu đàn bà người
họ Phí của nước La Sát hắn chửi tuốt, không chừa một ai”.
Hắn chửi bằng thổ ngữ đất Dương Châu (tỉnh Triết
Giang); bọn thuộc hạ của hắn là người Trung Quốc nghe mà vẫn không hiểu công
tước chửi cái gì. Ấy bởi vì họ nói tiếng Quan thoại. Chửi như thế thì bảo làm
sao đại sứ Sa hoàng Nga có thể nghe ra được. Thật ra, Phí Diêu Đa La không phải
họ Phí mà là họ Quả La Văn. Tuy nhiên, hắn cứ đè họ Phí mà chửi vì hắn dốt nát,
đâu biết được người Nga cái tên đặt ở trước cái họ.
Lịch sử chiến tranh Trung Quốc cho biết người
Trung Quốc thường dùng những tên to con, tốt tướng, miệng rộng, giọng to làm mạ
thủ. Mạ thủ có nhiệm vụ ở truồng, đến trước thành bên địch mà chửi để khiêu
khích tướng địch mở cửa thành ra đánh. Vi Tiểu Bảo bắt được một số hàng binh
Nga, cũng buộc họ làm mạ thủ chửi tướng Đồ Nhĩ Bố Thanh (Tolbusin) mở cửa thành
Nhã Tát Khắc (Nertohinsky) ra đánh nhau. Tuy nhiên, hắn thất vọng vì ngôn ngữ
chửi của bọn lính Nga quá tầm thường, quanh đi quẩn lại chỉ là ngươi là con heo,
ngươi là đồ chó. Hắn phải công nhận chỉ có người Trung Quốc chửi mới có ca có
kệ, có vần có điệu và ngôn ngữ cực kỳ phong phú.
Trong 12 bộ tiểu thuyết và 3 đoản thiên của Kim
Dung tràn đầy tiếng chửi bới. Tuy nhiên, những tiếng chửi bới này đặt vào đúng
những văn cảnh, những tình huống, phù hợp với cách của từng nhân vật nên khi
đọc, người đọc cảm thấy vui. Kim Dung không làm dơ văn chương của mình và cũng
không muốn văng tục vào cuộc đời. Nghiêm Gia Viêm, giáo sư trường Đại học Bắc Kinh
nhận định: “Kim Dung đã đưa tiểu thuyết võ hiệp lên ngang hàng với văn học cung
đình”.
Phải thẩm thấu văn hóa
mới cảm được văn hóa chửi
Theo tôi, chửi cũng là một nét văn hóa trong văn
hóa nhân loại, nhưng chỉ khi ta thẩm thấu một cách kỹ lưỡng nền văn hóa ấy,
ngôn ngữ ấy, thì ta mới cảm nhận hết cái "văn hóa chửi" nó "siêu
nhiên" tới mức độ nào. Cứ thử đọc Tư cách mõ của cụ Nam Cao mà xem, xem
cái câu chửi "mẹ kiếp" nó vừa lăng mạ, nó vừa chửi thề, mà nó cũng
lại nói lên xúc cảm của người chửi và của cả người nghe chửi như thế nào:
"- Mẹ kiếp! Không trách được người ta bảo: Tham như mõ...". Đọc Chí Phèo
ta sướng bởi cái chửi của hắn, một cái chửi làm cho ta nhập hồn vào trong
"văn hóa chửi" hay trong "văn học chửi". Nam Cao đã cho Chí
Phèo thay tác giả chửi thả sức, chửi hết cỡ mà ai nghe cũng thích, cũng tưởng
"thằng Chí Phèo nó chừa mình ra". "Bắt đầu là hắn chửi trời, rồi
hắn chửi đời... rồi hắn chửi luôn cả cái làng Vũ Đại, nhưng cũng chẳng ai
"bắt nhời"…".
Có nhiều cách chửi: Chửi thẳng, chửi mạt sát,
chửi bới, chửi xéo, chửi móc, chửi tục, chửi leo, chửi trèo, chửi ví, chửi
rủa... Mỗi kiểu chửi đều mang một xúc cảm khác nhau và đều mang lại một sự cân
bằng tâm sinh lý nhất định. Không thể không nói đến "văn hóa chửi" và
cũng không thể phủ định "văn hóa chửi". Chúng ta hãy chờ xem chuyên
mục hấp dẫn này đưa chúng ta đến "biết chửi", "biết nghe chửi"
và "cảm nhận chửi" như thế nào.
- Tôi không tán thành việc chửi thề, dù sao thì
nói những lời ngọt ngào với nhau vẫn dễ nghe hơn. Cho dù đối phương có sai
trái, nhưng nếu mình biết cách nói cho họ cảm thấy dễ chịu, cảm thấy bị thuyết
phục thì mình vẫn thành công. Còn hơn là mình cứ ào ào buộc tội họ bằng những
lời khó nghe, thì người ta có sai cũng không chịu thừa nhận là mình sai. Hơn
nữa những lời nói trong cơn giận dữ của mình chưa chắc đã đúng. Tôi nghĩ việc
gì cũng vậy, cần bình tĩnh và nói chuyện có văn hóa thì vấn đề mới được giải
quyết, chứ chửi thề thì nên hạn chế tối đa.
Câu truyện
về nói móc
Hồi còn
bé, gã đã cảm thấy say mê và thích thú khi đọc câu chuyện, cũng như khi xem
cuốn phim về Đavít và Goliát. Theo Kinh Thánh, lúc bấy giờ người Do Thái và
quân Philitinh đang dàn trận đánh nhau. Bên quân Philitinh có Goliát, là một
tên khổng lồ. Hắn cao 3 thước, đầu đội mũ chiến bằng đồng, mình mặc áo giáp vảy
cá và nặng 50 ký. Chân mang tấm che bằng đồng, vai đeo cây lao cũng bằng đồng.
Cán giáo của hắn như trục khung cửi thợ dệt, còn mũi giáo của hắn được làm bằng
sắt và nặng 6 ký. Trong khi đó, Đavít chỉ là một cậu bé chăn chiên, trong túi
có mấy hòn đá cuội nhặt được ở dưới suối, còn tay thì chỉ cầm một sợi dây bắn
đá.
Sáng
nào cũng thế, Goliát đều đến trước doanh trại của nguời Do Thái mà khích bác:
- Sao
chúng bay không xông ra trận? Hãy chọn lấy một người và nó hãy xuống đây với
ta. Nếu nó đủ sức mạnh để chiến đấu với ta và hạ đuợc ta, thì chúng tao sẽ làm
nô lệ cho chúng bay. Còn nếu ta mạnh hơn nó và hạ được nó, thì chúng bay sẽ làm
nô lệ và hầu hạ chúng tao.
Vua
Saun và toàn thể dân Israel
nghe những lời ấy, thì kinh khiếp và sợ hãi lắm. Thế nhưng, Đavít liền nói với
nhà vua:
- Xin
đừng ai ngã lòng vì hắn ta. Tôi tớ ngài đây sẽ đi chiến đấu với tên Philitinh
ấy.
Đồng
thời, Đavít đã trấn an nhà vua:
- Tôi
tớ ngài là người chăn chiên chăn dê cho cha. Khi sư tử hay gấu đến tha đi một
con chiên trong bầy gia súc, thì con đuổi theo nó, đánh nó và giật con vật khỏi
mõm nó. Nó mà chồm lên con, thì con nắm lấy râu nó và đánh cho nó chết. Tôi tớ
ngài đã đánh cả sư tử lẫn gấu, thì tên Philitinh không cắt bì này cũng sẽ là
như một trong các con vật đó, vì nó đã thách thức các hàng ngũ của Thiên Chúa
hằng sống…
Nhà
vua liền nói với Đavít:
- Con
hãy đi và xin Đức Chúa ở với con.
Khi
nhìn thấy Đavít, tên Philitinh liền tỏ vẻ khinh dể và đã nói với cậu:
- Tao
là chó hay sao mà mày cầm gậy đến với tao… Tới đây với tao, tao sẽ đem thịt mày
làm mồi cho chim trời và dã thú.
Đavít
bảo tên Philitinh rằng:
- Mày
mang gươm, mang giáo, cầm lao mà đến với tao. Còn tao, tao đến với mày nhân
danh Đức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa các hàng ngũ Israel mà mày
thách thức. Ngay hôm nay, Đức Chúa sẽ nộp mày vào tay tao, tao sẽ hạ mày và làm
cho đầu mày lìa khỏi thân. Ngay hôm nay, tao sẽ đem xác chết của quân đội
Philitinh làm mồi cho chim trời và dã thú. Toàn cõi đất sẽ biết rằng có một
Thiên Chúa che chở Israel…
Khi tên
Philitinh bắt đầu xông lên và đến gần để đương đầu với Đavít, thì Đavít vội
vàng chạy từ trận tuyến ra để đương đầu với tên Philitinh. Đavít thọc tay vào
bị, lấy từ đó ra một hòn đá, rồi dùng dây phóng mà ném trúng vào trán tên
Philitinh. Hòn đá cắm sâu vào trán, khiến hắn ngã sấp mặt xuống đất. Thế là
Đavít đã chiến thắng tên Philitinh chỉ nhờ một dây phóng và một viên đá cuội.
Nhưng vì trong tay không có gươm, Đavít bèn chạy đến, đứng trên xác của tên
Philitinh, lấy gươm của hắn, rút khỏi bao, kết liễu đời hắn và dùng gươm chặt
đầu hắn.
Theo truyện
“Tam quốc chí diễn nghĩa” do Tử Vi Lang dịch, thì vào cuối đời nhà Hán, Trung
Hoa lục địa bị chia thành ba nuớc, làm nên cái thế chân vạc, đó là nuớc Thục ở
phía tây do Lưu Bị cai quản, nước Ngô ở phía đông do Tôn Quyền cầm đầu và nước
Nguỵ ở phía bắc do Tào Tháo thống lãnh. Chiến tranh và loạn lạc xảy ra trong
khắp cả thiên hạ. Tuy nhiên, có điều gã cũng nhận thấy đó là truớc mỗi cuộc
giao tranh, bên này thuờng khích bác bên kia, còn bên kia thì lại thường chửi
bới bên này một cách thậm tệ. Giống như một lượng dầu được đổ thêm vào lửa, làm
cho ngọn lửa bùng cháy lên, thì những lời khích bác và chửi bới ấy cũng đã làm
cho binh lính của cả đôi bên hăng tiết vịt. Và thế là họ liền hùng hổ xông ra
chiến trận, hăng say chém giết lẫn nhau.
Từ những
sự việc kể trên, gã đi vào đề tài của mục chuyện phiếm hôm nay bàn về “nghệ
thuật nói móc”. Hẳn rằng mọi nguời đều biết ngôn ngữ và tiếng nói là một thứ
quà tặng, được Thượng Đế ưu ái trao ban cho con người, để họ dùng làm phương
tiện mà liên hệ với nhau. Vì thế, chúng ta có thể xác quyết một cách mạnh mẽ:
Nguời là một con vật có ngôn ngữ, có tiếng nói.
Dĩ nhiên,
gã không phủ nhận nơi con vật cũng có một thứ ngôn ngữ, một thứ tiếng nói nào
đó để diễn tả những ước muốn của chúng, nhưng dầu sao thì thứ ngôn ngữ và tiếng
nói ấy, cứ tạm gọi là nhu thế, vẫn còn ở trong tình trạng ấu trĩ và đơn giản.
Chỉ có ngôn ngữ và tiếng nói nơi con người mới thực sự liên tục phát triển và
tiến tới một đẳng cấp, một trình độ nghệ thuật mà thôi.
Thế
nhưng, tuỳ theo phương thức sử dụng, ngôn ngữ và tiếng nói có thể mang lấy tính
cách xây dựng hay phá đổ. Thực vậy, có những lời nói chân thành, những lời nói
an ủi và khích lệ đã tạo được một bầu khí hoà thuận, đã bắc được một nhịp cầu
cảm thông, làm cho con nguời hiểu nhau, nhờ đó mà xích lại gần nhau hơn. Nhưng
đồng thời cũng có những lời nói độc địa và cay đắng, những lời nói bỏ vạ và cáo
gian, đã làm cho người khác bị thân bại danh liệt, khơi rộng thêm mối hận thù,
vốn dĩ đã từng âm ỉ trong cõi lòng của con người.
Và
theo thiển ý của gã, thì một trong những loại ngôn ngữ mang lại hậu quả tàn
phá, đó là nói móc. Thực vậy, mở bất kỳ một cuốn tự điển Việt
Nam ra để tra cứu, gã đều thấy phạm trù “nói” của nguời Việt Nam thật là phong
phú. Chẳng hạn trong cuốn “Việt Nam tự điển” của Lê Văn Đức, gã đếm đuợc cả
thảy hơn 600 chữ đuợc ghép với chữ “nói”, từ “nói ấm ớ” đến “nói xiên nói xéo”…
Quả là tuyệt vời! Vậy thế nào là nói móc? Tuỳ theo mức độ “đậm đặc” và ý đồ đen
tối của người nói, gã ghi nhận đuợc nhiều cấp bậc nói móc khác nhau:
Đầu
tiên là nói bóng nói gió, tức là nói một cách xa xôi để người ta hiểu
ngầm, thường là với những lời hai ý. Tiếp đến là nói mát, tức là mỉa
mai người ta một cách nhẹ nhàng cho thoả mãn nỗi tức giận của mình. Ai có tật
thì giật mình.
Sau
khi đã xơi qua những món khai vị, thì bây giờ mới tới món chính, gồm có: Nói
kháy là nói với giọng điệu khiêu khích; nói móc là cố ý chọc tức,
nói thế nào khiến cho người ta phải bực bội. Cũng trong phạm vi này, còn có nói
xỏ, nói xóc, nghĩa là chọc cho nguời ta tức, nói cho người ta giận. Sau
cùng, theo ngôn ngữ của nguời Hà Nội hôm nay, còn có nói đểu, nghĩa là
nói với đầy ác ý cốt để cho người khác phải tức giận đã đành, mà còn bồi thêm
một cú mỉa mai và khinh bỉ.
Theo một
vài nhà “ngâm kíu”, thì nói móc là một thứ đặc sản của dân ta. Nó không phải
chỉ là “tuyệt chiêu” của các bà các cô, mà nhiều lúc còn trở thành “độc chiêu”
của giới mày râu nữa.
Thí dụ:
Ta chẳng ưa gì một ông hàng xóm, nhưng lại không dám nói thẳng ra, và thế là ta
bèn nói kháy, nói móc, khiến cho ông bạn tức như bị bò đá mà vẫn cứ phải nín
khe. Ông bạn càng bực, càng tức, thì ta lại càng hả hê, khoái cái miệng và
sướng cả cõi lòng.
Thí dụ
nữa: Một đứa bé học trò nghịch ngợm trong lớp, bị ông thầy đánh cho ba roi.
Trong khi ông thầy quất cái roi xuống, đứa bé theo phản xạ tự nhiên bèn đưa tay
ra đỡ. Chẳng may cái roi đụng phải cái móng tay đứa bé và làm cho nó chảy máu.
Đứa bé nước mắt lưng tròng chạy về nhà kể lể và tả oán với bố nó. Ông bố cáu
tiết bèn làm một màn nói móc và chửi đổng. Ông ta vừa chạy dọc theo con đuờng
duy nhất trong làng, vừa quát tháo ầm ĩ:
- Tiên
sư bố nó! Nó không đẻ, nó không đau, nó dám đánh con người ta như thế kia à.
Tiên sư bố nó!
Thậm chí
ngay cả quí vị con nít cũng học đòi bắt chước người lớn mà nói móc, nói kháy.
Thí dụ: Tí đến nhà Tèo chơi. Vì đang học đàn, nên Tèo hí hửng lấy cây guitar và
gảy biểu diễn mấy bài liền, sau đó quay sang hỏi Tí:
- Bạn
thấy bài nào hợp với mình nhất?
Suy
nghĩ một lát, Tí lắc đầu và nói:
-
Trong số những bài này, thì mình không biết, nhung mình biết có một bài rất hợp
với bạn.
Tèo
mừng húm:
- Bài
nào vậy?
Tí tỏ
vẻ bí mật, nói nhỏ vào tai Tèo:
- Bài
“Đập vỡ cây đàn”.
Nói
xong, Tí ôm bụng cười ngặt nghẽo, còn Tèo thì bực tức, muốn cho thằng bạn xỏ lá
xơi mấy cú đấm vào mặt.
Như trên
gã đã bảo: nói móc là một trong những cách thức mau chóng phá đổ tình nghĩa
trong lãnh vực đời thường cũng như trong phạm vi cuộc sống gia đình. Nhất là
khi người ta lại móc quá sâu và quá đậm thì thường để lại những hậu quả thảm
khốc, khó mà lường nổi. Gã xin muợn đỡ một vài kinh nghiệm của tác giả Trần
Triều trong bài “Bệnh kháy” đuợc đăng tải trên báo “Phụ Nữ Thứ Ba” số ra ngày
18.8.2009.
Truớc
hết là trong lãnh vực đời thường.
Một
tốp thanh niên đang ngồi uống bia trong quán, thì một tốp khác cũng vào và ngồi
ở bàn bên cạnh. Tốp này nói với tốp kia:
-
Chúng mày muốn uống bia thì phải gọi chúng tao bằng ông nội, không thì ăn đòn.
Một tên
tốp kia hùng hổ tiến tới, nhung bất ngờ bị ngáng chân té lăn cù trên đất, khiến
cho tốp này đều cười ồ lên. Thế là cả tốp kia đều rút lui có trật tự, nhung chỉ
một lát sau liền trở lại quán với dao phay và mã tấu. Hỗn chiến xảy ra, khiến
một em chết liền tại chỗ!!!
Tiếp
đến là trong phạm vi cuộc sống gia đình.
Hai vợ
chồng đang ngồi xem phim với nhau, đến đoạn nhân vật nam ngoại tình, chị vợ bèn
phán:
- Cái
thứ đàn ông mèo mả gà đồng, trăng hoa cho lắm. Một vợ thì nằm giường lèo, hai
vợ thì nằm chèo queo, ba vợ thì ra chuồng heo mà nằm.
Anh chồng
nóng mặt vì anh thừa biết chị mượn nhân vật trong phim để “xoáy, nghiền, bóp”
cái vết thương cũ của mình. Một năm truớc, anh đi theo công trình xây dựng
xuống Kiên Giang, và ở đây anh đã léng phéng chút đỉnh với cô bán cà phê, nhưng
đã giải quyết dứt điểm. Chuyện tuy đã qua, nhưng hễ có dịp là chị vợ lại “móc”
cho một phát. Phim đến đoạn nhân vật nữ nổi cơn ghen, anh liền “tung đòn”:
- Cái
thứ đàn bà mà ghen quá đáng như vậy, có ngày mất chồng luôn mà không hay. Thằng
đàn ông đã bực lên rồi thì bỏ hết, bất chấp tất cả.
Từ chỗ
đang cùng ngồi coi phim một cách đầm ấm, bỗng chốc cả hai vợ chồng quay ra hầm
hè, cố tìm ra những từ, những cách nói khiến “đối phương” càng đau, thì mình
càng “đã”. Từ chỗ mình mình, em em, bỗng chốc biến thành cái thứ này, cái thứ
nọ…
Chuyện
chưa kết thúc. Bực mình chị vùng vằng bỏ vào buồng, nhưng không quên quăng lại
một câu:
- Coi
cái phim này, khối thằng đàn ông sáng mắt ra, bồ bịch lăng nhăng thì cứ chuồng
heo mà nằm.
Anh
nổi điên:
- Nằm
chuồng heo còn hơn nằm với con đàn bà điêu ngoa. Thật hết chịu nổi.
Chỉ vì
mấy câu nói móc mà vợ chồng đang sống chung hoà bình, bỗng chuyển biến thành
chiến tranh!
Một trường
hợp tương tự khác. Anh tay trắng từ miệt vườn lên Saigon
lập nghiệp, cưới đuợc chị là con gái một gia đình khá giả. Thế nhưng, mẹ ruột
anh lại có tính hay “bòn”, mỗi lần lên thăm anh, đều xin một vài món lặt vặt
trong nhà, mà bà cho rằng các con “thừa”, không dùng đến. Chị thì chỉ “bằng mặt
chứ không bằng lòng”. Còn anh thì lại chẳng quan tâm đến mấy chuyện vặt vãnh
đó. Vấn đề là sau mỗi lần mẹ chồng ra về, chị lại móc:
- Tôi
ghét nhất là mấy nguời đến đâu cũng góp góp nhặt nhặt. Đồ của người ta mà cứ
nghĩ là không dùng đến, rồi năn nỉ ỉ ôi.
Anh
nghe mà nổi nóng, vì có cảm giác mẹ mình bị xúc phạm:
- Cô
muốn gì, thì cứ nói thẳng ra, chứ đừng bóng gió như thế.
Chị
trêu ngươi:
- Tôi
nói vu vơ vậy đó. Ai có tật thì giật mình chớ.
Anh
lại càng tức điên lên, nhưng nếu mắng mỏ thì xoàng quá, phải móc lại mới được.
Anh nhẹ nhàng bảo:
- Ừ,
họ gom hết đồ của con trai về xài, còn hơn cái ngữ lén chồng, gom của nhà mình
đưa về nhà mẹ. Mà nhà mẹ có khó khăn gì đâu, rặt một lũ lười lao động, chảy
thây ra đó.
Đến lượt
chị tức anh ách, nhưng đành phải nín thinh bỏ đi một mạch, bởi vì anh biết chị
lén “tiếp tế” cho nhà ngoại từ lâu, nhưng làm thinh, vì nghĩ chuyện cũng chẳng
đáng gì. Nhung khi bị vợ “nói đểu”, anh đã không dằn lòng được.
Một lần
khác, anh tỏ ra hào hiệp cho người bạn thân vay tiền mua xe. Biết có “xin”, thì
chị cũng chẳng “cho”, nên anh “tiền trảm hậu tấu”. Sau khi nghe anh “tấu”, thì
điều thật lạ lùng, đó là chị không nổi giận mà lại tỏ ra dửng dưng, khinh
khỉnh. Biết mình có lỗi, anh bấm bụng cho qua, coi như “kết thúc vụ án”. Vậy mà
một lần chị bâng quơ nói với con:
- Con
cố gắng lớn lên biết mở mắt ra một chút, chứ đừng có khôn nhà dại chợ nhé con.
Chỉ
nghe câu nói đó, anh đã hất chiếc tivi bể tan, đập bẹp thêm chiếc quạt máy, rồi
hầm hầm bỏ đi.
Kinh nghiệm
cho thấy: Khi mâu thuẫn xảy ra, thà rằng hét toáng lên cho hả giận, hoá ra lại
hay hơn là nhẹ nhàng “sửa lưng” nhau, bởi vì việc cãi vã to tiếng sẽ sớm đi vào
lãng quên, còn nói móc hay nói kháy lại gây nên những vết thương lòng âm ỉ và
dai dẳng. Những cặp vợ chồng xung đột trực tiếp, xem ra lại ở bền với nhau hon
những cặp chơi trò nói móc và nói kháy. Nhiều khi cái “bệnh móc” này thấm sâu
vào lục phủ ngũ tạng, đến nỗi một chuyện nhỏ cũng trở thành chuyện lớn. Chẳng
hạn, anh chồng húp bát canh thấy mặn, thay vì nói thẳng, thì lại nói bóng nói
gió:
- Canh
hôm nay nhạt nhỉ?
Chị vợ
bực vì bị chồng “nói đểu”, tức vì đã là vợ chồng với nhau nhưng lại không trao
đổi thật lòng. Chuyện nhỏ mà bị móc sẽ hoá thành chuyện lớn. Và chuyện lớn mà
bị móc thêm, sẽ dễ nổ tung như trái lựu đạn.
Một anh
chồng đã tâm sự như sau: Hồi mới cưới, chúng tôi cũng đã từng cạnh khoé với
nhau dữ lắm. Tôi quyết tâm sửa là vì sau mỗi lần nói móc, dù đạt được mục đích
tức thời là làm cho vợ tức điên lên, nhưng sau đó ngẫm lại, thấy bản thân mình
cứ hèn hèn sao ấy… Ngược lại, vợ bóng bóng gió gió, tôi cũng tức điên lên và
ghét cay ghét đắng cái tật ấy. Từ đó, mỗi lần vợ mở miệng ra định móc, tôi liền
cương quyết:
- Muốn
nói gì thì nói thẳng, hoặc đừng nói gì cả.
Dần
dần thói quen nói thẳng và nói thật được hình thành. Ngồi vào bàn ăn thấy thiếu
tương ớt thì nói thẳng:
- Em
ơi, còn thiếu tương ớt.
Chứ
hồi còn mắc bệnh “móc”, thế nào tôi cũng nói:
- Hình
như độ này em chăm làm đẹp quá, sợ mặt nổi mụn nên kiêng ăn tương ớt đó à?
Tóm
lại, các cụ ta ngày xưa đã bảo: Nói gần nói xa, chẳng qua nói thật.
Hay như một câu danh ngôn cũng đã khuyên nhủ: Hãy ngoáy lưỡi bảy lần truớc
khi nói, để mỗi lời chúng ta nói ra sẽ là một góp phần vào việc tạo nên
một bầu khí hoà thuận và bắc đuợc một nhịp cầu cảm thông:
Lời
nói chẳng mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
- See more at:
http://www.lamhong.org/2011/11/07/noi-moc/#sthash.l8lj3XeO.dpuf